Nghiệp và tâm

Nguyên Thanh

6 Tháng Chín, 2019

  • Bỏ chọn
  • Bỏ chọn
17

Các tương tác cảm xúc

Tất cả
17
Bạn
  • 4 người khác thấy bổ ích
  • 4 người khác thấy cảm hứng
  • 6 người khác thấy xúc động
Chuyển sang nghe podcast

Nội dung mô tả

Tóm lại, nghiệp là từ trường của hành động thân, khẩu, ý do tâm điều khiển, nghiệp nằm ngoài thân ngũ uẩn và tác động vào thân ngũ uẩn, còn tâm là cái biết tổng hợp của 6 thức trong thân ngũ uẩn. Nghiệp do tâm tạo và tâm là thể hiện của nghiệp. Muốn tâm thanh thản, an vui thì tâm phải ngăn và diệt nghiệp ác, tăng trưởng nghiệp thiện, sống không làm khổ mình khổ người.

– Nguyên Thanh

Quý bạn đọc vui lòng chọn định dạng pdf hoặc epub, rồi nhấn nút “Đọc” ở trên để đọc toàn bộ nội dung bài triển khai tri kiến giải thoát này, hoặc xem trực tiếp như sau:

Ngày 6 tháng 9 năm 2019

NGHIỆP VÀ TÂM

Phật tử N.D thưa hỏi

Hỏi: Kính thưa sư cô, hôm qua con đã đọc kỹ lời khuyên của cô, con đã biết nên làm gì tiếp theo rồi ạ. Con cảm ơn sư cô nhiều lắm! Con còn một câu hỏi nữa, mong sư cô từ bi chỉ dạy. Con có đọc nhiều sách và xem video giảng pháp của Trưởng lão thì được biết rằng, mỗi ý nghĩ, hành động của chúng ta đều phát ra từ trường thiện hoặc ác, đồng thời, từ trường này vây quanh chúng ta giống như một khối hào quang. Nghiệp lực này độc lập với thân và tâm, nó lôi kéo, thúc đẩy chúng ta làm các việc ác hoặc thiện. Nếu chúng ta làm ác thì hành động ác đó sẽ lại phát ra từ trường ác và cứ thế nghiệp lực ngày càng mạnh thêm, ngược lại nếu chúng ta làm thiện (không làm khổ mình khổ người) thì từ trường thiện phát ra, khi siêng năng sinh thiện tăng trưởng thiện thì từ trường thiện này sẽ mạnh lên và lấn át từ trường ác. Đến đây thì con đã hiểu tương đối, con cũng hiểu thân ngũ uẩn là gì, tuy nhiên “tâm” cụ thể là gì con vẫn chưa phân biệt thật rõ. Tâm có phải là ý thức không ạ? Nó là một thức trong 6 thức hay là gì khác ạ? Con mong cô từ bi chỉ dạy! Con xin cảm ơn ạ!

Đáp: Kính gửi chị N.D!

Câu hỏi của chị có mấy phần sau: Nghiệp là gì? Tâm là gì? Nghiệp nằm ngoài hay trong thân ngũ uẩn này? Tâm có phải là ý thức không? Mối quan hệ giữa nghiệp và tâm?

Trước hết ta xác định: nghiệp là gì?

Con người chúng ta hàng ngày luôn hoạt động theo tâm tham, sân, si của mình, mỗi hành động từ thân, miệng, ý luôn phóng xuất ra từ trường thiện ác trong không gian này, thì từ trường đó gọi là nghiệp.

Ở đây có khái niệm là “từ trường”, Trưởng lão Thích Thông Lạc đã nói rằng: Thầy mượn danh từ vật lý là “từ trường” để chỉ cho “trường” hành động thiện ác của con người phát ra trong không gian, và Thầy nói rằng danh từ “từ trường” này cũng chưa đúng hẳn.

Đức Phật đã xác định ý thức con người dẫn đầu các pháp, cho nên tất cả các hành động của chúng ta đều do ý thức điều khiển. Khi chúng ta làm một hành động thì nó tạo ra một từ trường, hành động ác sẽ tạo ra từ trường ác, hành động thiện sẽ tạo ra từ trường thiện. Từ trường này chính là nghiệp lực bao quanh chúng ta, luôn luôn tác động vào thân tâm làm cho chúng ta khổ đau hay an vui, cho nên Đức Phật dạy trong kinh Pháp cú:

“Ý dẫn đầu các pháp

Ý chủ, ý tạo tác

Nếu với ý nhiễm ô

Nói năng hay hành động

Khổ não bước theo sau

Như xe theo vật kéo”

–o0o–

“Ý dẫn đầu các pháp

Ý chủ, ý tạo tác

Nếu với ý thanh tịnh

Nói năng hay hành động

An lạc bước theo sau

Như bóng không rời hình”

Cho nên, nghiệp theo chúng ta, tức là nó ở bên ngoài chứ không phải ở trong thân chúng ta. Nói một cách rõ ràng hơn: nghiệp và thân ngũ uẩn là hai chứ không phải là một. Nghiệp nằm ngoài thân ngũ uẩn và tác động vào thân ngũ uẩn để chúng ta trả quả khổ hoặc hưởng quả an vui. Như Trưởng lão Thích Thông Lạc dạy thì chúng ta không nhìn thấy từ trường nghiệp ác và từ trường nghiệp thiện đang bao quanh chúng ta, nhưng chúng ta biết sự tác động của nó, ví dụ như tai nạn, bệnh tật, đau khổ, đó là để trả những nhân quả ác đã gieo.

Đức Phật dạy, con người là thừa tự của nghiệp, nghiệp là thai tạng của con người, cho nên nghiệp nằm ngoài thân ngũ uẩn. Nếu nghiệp ở trong thân ngũ uẩn thì khi chúng ta chết là hết nghiệp, hết nghiệp là hết tham sân si, hết tham sân si là chấm dứt tái sanh. Có phải không? Nhưng không phải như vậy!

Khi thân ngũ uẩn chết thì vẫn còn nghiệp tương ưng tái sanh, chứ nghiệp không mất đi. Chỉ khi nào không còn tham, sân, si thì chỉ còn nghiệp thiện bất động không tương ưng tái sanh mà thôi. Vì thế, Đức Phật dạy: “Nghiệp tái sanh luân hồi”, chỉ cho nghiệp tham, sân, si tương ưng tái sanh luân hồi.

Dưới đây là một ví dụ trực quan để chúng ta có thể hiểu thêm về nghiệp như sau:

Chúng ta có một chiếc điện thoại iPhone, rồi tạo một tài khoản và đăng nhập vào để sử dụng. Hằng ngày chúng ta dùng điện thoại này để gõ văn bản, quay phim, chụp ảnh, gọi điện, nhắn tin, chơi game… tất cả những dữ liệu này đều được lưu trên đám mây điện toán, gọi là iCloud. Khi chiếc điện thoại này bị hỏng hoặc không dùng được nữa, chúng ta có thể mua một chiếc điện thoại (iPhone) mới và đăng nhập bằng tài khoản cũ, tải toàn bộ dữ liệu từ đám mây điện toán về sử dụng bình thường, thì tất cả những dữ liệu cũ như tin nhắn, hình ảnh, video… sẽ được xuất hiện trên chiếc điện thoại mới.

Ở đây, điện thoại iPhone tượng trưng cho thân ngũ uẩn của chúng ta, dữ liệu lưu trữ trên đám mây điện toán (iCloud) giống như là nghiệp vậy. Dữ liệu trên đám mây điện toán nằm ngoài điện thoại cũng như nghiệp chúng ta nằm ngoài thân ngũ uẩn. Khi điện thoại mất thì dữ liệu lưu trên đám mây điện toán vẫn còn, cũng như thân ngũ uẩn tan hoại thì nghiệp vẫn còn và tương ưng tái sanh.

Cho nên, Đức Phật dạy: “Nghiệp tương ưng tái sanh luân hồi” chứ không phải nghiệp đi luân hồi, vì từ trường hành động thiện ác của chúng ta bao phủ không gian, đủ thời tiết nhân duyên là tương ưng tái sanh. Ví dụ: từ trường thiện ác chúng ta tương ưng với từ trường tham, sân, si của cha mẹ nào đó, hợp duyên sẽ sanh ra bào thai, từ đó phát triển thành con người hoàn chỉnh.

Như vậy, nghiệp của chúng ta là những từ trường hành động thiện ác xuất phát từ thân, khẩu, ý và nghiệp này nằm ngoài thân ngũ uẩn. Cái gì mà chúng ta thường hay làm lặp đi lặp lại nhiều lần trở thành thói quen thì đó gọi là nghiệp lực. Nghiệp là từ trường vô hình, nhưng chúng ta vẫn biết được sự tác động của nó.

Ví dụ 1: Nhiều khi mình muốn thức nhưng cơn buồn ngủ cứ ập tới mà không chống lại được thì đó là nghiệp si tác động vào ý thức gây buồn ngủ.

Ví dụ 2: Khi có một món ăn ngon, ta cảm thấy thèm thì đó là nghiệp tham đã chi phối.

Ví dụ 3: Thấy cảnh trái ý nghịch lòng thì ta nổi sân lên thì đó là nghiệp sân chi phối tác động vào thân (nóng mặt, tim đập nhanh) và ý thức để sanh khởi cơn tức giận.

Ví dụ 4: Có người thích đi nhanh, có người thích đi chậm thì đó là nghiệp thân hành của họ.

Ví dụ 5: Có người ngồi là cựa quậy không yên, hay bẻ ngón tay ngón chân cũng là nghiệp thân của họ, đây gọi là thân bị trạo cử.

Ví dụ 6: Cùng học một vấn đề nhưng có người học nhanh, có người học chậm là vì người học nhanh họ đã huân tập sự hiểu biết về lĩnh vực đó từ đời trước, nên khi gặp lại thì họ dễ tiếp thu hơn, gọi là năng khiếu, năng khiếu chính là nghiệp.

Ví dụ 7: Có việc gì xảy ra trong gia đình hoặc ngoài xã hội làm ta lo lắng, buồn phiền đó chính là nghiệp tác động làm cho ta lo lắng, buồn phiền.

Ví dụ 8: Trưởng lão Thích Thông Lạc dạy rằng: Những người có thói quen sát sanh thì đã huân tập thành một nghiệp sát, nên khi nóng giận họ có thể giết người rất dễ dàng.

Nếu chúng ta hành động ác làm khổ mình khổ người thì sẽ tạo ra nghiệp ác, nghiệp ác là từ trường ác, từ trường này sẽ luôn luôn theo chúng ta và tác động vào thân tâm làm cho chúng ta bị tai nạn, bệnh tật, hờn giận, phiền não, bất an… để trả quả khổ.

Nếu chúng ta hành động thiện không làm khổ mình khổ người thì sẽ tạo ra nghiệp thiện, nghiệp thiện là từ trường thiện, từ trường này sẽ luôn luôn theo chúng ta, tác động vào thân tâm làm cho chúng ta hạnh phúc, no đủ, an vui, thanh thản để ta hưởng phước thiện.

Những hành động của chúng ta đều xuất phát từ thân, khẩu, ý do tâm điều khiển.

Vậy tâm là gì?

Tâm chính là cái biết của 6 căn: mắt, tai, mũi, miệng, thân, ý. Trong 6 căn này, ý căn làm chủ điều khiển 5 căn còn lại.

Cái biết của mắt, tai, mũi, miệng, thân gọi là các giác quan, còn ý thức là trung ương để tổng hợp và ra quyết định.

Để hiểu về tâm thì chúng ta có thể hình dung như sau:

Cơ thể con người cũng giống như một đất nước vậy, một đất nước có Trung ương và các bộ ngành như: Bộ Giáo dục, Bộ Quốc phòng, Bộ Công an, Bộ Y tế, Bộ Giao thông, Bộ Kinh tế, Bộ Phòng chống thiên tai, Bộ Tài nguyên và Môi trường… Trạng thái của đất nước đó phụ thuộc vào “cái biết tổng hợp” của Trung ương và các bộ ngành. Từ cái biết tổng hợp này thì Trung ương mới ra quyết định cho các đơn vị trực thuộc thực thi.

Ví dụ 1: Bộ Phòng chống thiên tai thông báo là cơn bão số 4 sẽ tới các tỉnh miền Trung vào tháng 9 thì Trung ương ra lệnh phải phòng chống bão lụt để ổn định cuộc sống cho nhân dân.

Ví dụ 2: Bộ Kinh tế báo cáo là tình hình giá cả leo thang, hàng hóa xuất khẩu tồn đọng… thì Trung ương đánh giá tình hình và ra chỉ thị đảm bảo ổn định kinh tế và đời sống nhân dân.

Ví dụ 3: Bộ Công an báo cáo tình hình an ninh trật tự có bất ổn thì Trung ương chỉ thị các đơn vị liên quan phải xử lý để đem lại sự bình an cho nhân dân…

Vì vậy, trạng thái của đất nước là do sự phân tích, đánh giá của các bộ ngành và quyết định của Trung ương, trạng thái đó gọi là “tâm”.

Đối với con người thì cũng như một đất nước, tâm là tổng hợp của 6 cái biết: mắt, tai, mũi, miệng, thân, ý, trong đó ý thức là Trung ương quan trọng nhất; mắt, tai, mũi, miệng, thân đóng vai trò như các bộ ngành.

Vậy cái biết của tâm phụ thuộc vào điều gì?

Ta xét một số trường hợp sau:

Ví dụ 1: Có một người tập uống rượu, ban đầu thì một chén, sau thì hai chén và cứ thế thành thói quen nghiện rượu, thói quen này chính là nghiệp lực nghiện rượu. Thỉnh thoảng nghiệp lực này sẽ tác động vào ý thức của anh ta để gây ra cảm giác thèm rượu, lúc này cái biết của anh ta là cái biết thèm uống rượu. Nếu anh ta làm theo tâm ham muốn uống rượu của mình là bị nghiệp nghiện rượu dẫn dắt thì anh ta tiếp tục thực hiện hành vi uống rượu và nghiệp lực nghiện rượu sẽ được huân tập dày thêm, nghĩa là anh ta sẽ nghiện rượu nặng hơn.

Ngược lại, nếu khi khởi tâm thèm rượu mà anh ta suy tư: “Mình không ăn cơm, không uống nước mới chết chứ đâu phải không uống rượu mà chết? Nếu mình cứ tiếp tục uống rượu thì sẽ say xỉn không làm chủ được bản thân, vừa hao mòn sức khỏe, nhân cách suy đồi, lại tốn tiền tốn của, khi say thì làm khổ mình khổ người, trở thành gánh nặng cho gia đình và xã hội”. Nghĩ như vậy thì anh ta nhắc tâm: “Nhất định không được uống rượu, phải từ bỏ thói quen nghiện ngập ác pháp này!”, lúc này tâm của anh ta là cái biết triển khai tri kiến ly dục uống rượu, khiến cho nghiệp nghiện rượu sẽ giảm xuống, nhẹ hơn.

Ví dụ 2: Có người hàng ngày hễ ai nói trái ý nghịch lòng thì tức giận thành thói quen giận hờn, gọi là nghiệp sân. Đến một ngày, có người tới chửi anh ta, nếu anh ta thiếu bình tĩnh thì nghiệp sân tác động vào ý thức khiến anh ta tức giận, nóng mặt, mắng chửi lại người đó, tức là tâm sân đang phát khởi, tâm sân phát khởi thì nghiệp sân sẽ được tăng cường độ.

Nếu anh ta bình tĩnh, cố nén cơn sân nhưng không chửi lại người đó thì nghiệp sân của anh ta không được xả, vẫn tích tụ trong tâm. Nếu tâm sân đó dồn nén lâu ngày vượt quá sức chịu đựng của bộ não thì sẽ phát khởi ra hành động sân như tức giận mắng chửi, đập phá đồ đạc và có thể giết người được.

Trên báo chí có đăng tin trường hợp người anh giết cả nhà em ruột là do sự tích tụ tâm sân dồn nén, không giải tỏa được, nên khi gặp duyên là một mâu thuẫn nhỏ cũng có thể bộc phát thành hành động rất là hung ác, gây hậu quả bi thảm. Đúng là: “một đốm lửa sân thiêu cháy cả rừng công đức”, “nhất niệm tâm sân khởi, bách vạn chướng môn khai”.

Nếu anh ta bình tĩnh và suy tư: “Người đang chửi mình là người đang đau khổ, còn người hạnh phúc thì làm sao mà chửi mắng ai bao giờ? Mặt khác người chửi mình chỉ là một duyên để mình trả nhân quả đã từng chửi mắng người khác. Vay thì phải trả chứ có gì đâu mà phải giận? Do vậy mình không được sân mà hãy thương yêu và tha thứ cho họ!”, lúc này tâm của anh ta chính là cái biết đang triển khai tri kiến để xả tâm sân. Sau khi triển khai và tác ý xả tâm sân, thì cường độ nghiệp sân của anh ta sẽ giảm xuống.

Ví dụ 3: Có người đang lái xe, anh ta chú ý quan sát đường để điều khiển xe an toàn đúng luật giao thông. Nhưng đến một đoạn đường đột nhiên trong ý của anh ta khởi lên vọng tưởng về một chuyện buồn trong quá khứ, khiến anh ta bị chi phối và mất tĩnh giác, thất niệm, thế là anh ta không quan sát thấy phía trước có một hố sâu, nên không kịp đánh lái tránh hố sâu đó, kết quả là một tai nạn giao thông thương tâm xảy ra. Như vậy, cái tâm của anh bị nghiệp chi phối, dẫn dắt nên thất niệm, quên đi cái biết hiện tại (không quan sát đường).

Ví dụ 4: Cùng một vấn đề xảy ra ngoài xã hội, nhưng nhà kinh tế sẽ nhìn ở góc độ lợi ích kinh tế; nhà khoa học sẽ phân tích ở khía cạnh khoa học; nhà môi trường sẽ phân tích ở khía cạnh ảnh hưởng môi trường; nhà an ninh sẽ suy nghĩ về vấn đề an toàn, an ninh; nhà làm luật sẽ nhìn ở góc độ luật pháp… có nghĩa là mỗi người sẽ nhìn vấn đề theo sự hiểu biết kinh nghiệm của họ, nên cùng một sự vật hiện tượng, nhưng tâm mỗi người khác nhau.

Ví dụ 5: Có người ăn chay vì sức khỏe, có người ăn chay vì sắc đẹp, có người ăn chay vì giáo điều tôn giáo, có người ăn chay vì Đức Hiếu Sinh… Cho nên, cũng là ăn chay nhưng tâm mỗi người mỗi khác.

Ví dụ 6: Có người hiểu Phật pháp ở góc độ tôn giáo thì họ sẽ hiểu sự tu hành theo cấp bậc từ người cư sĩ tới tu sĩ, trong giới tu sĩ thì chia ra Sadi, Tỳ kheo, Đại đức, Thượng tọa, Hòa thượng… theo hạ lạp (thâm niên tu hành); có người hiểu Phật pháp ở đạo đức thì họ sẽ áp dụng tu tập theo từng cấp độ từ Đạo Đức Nhân Bản Làm Người 5 giới, đến Đạo Đức Nhân Quả 10 điều lành, cuối cùng là Đạo Đức Làm Thánh, tâm bất động trước các ác pháp và cảm thọ, rồi áp dụng pháp tu đúng theo hoàn cảnh sống. Như vậy, cũng là Phật pháp nhưng sự hiểu biết mỗi người khác nhau, tức là tâm khác nhau, nên kết quả sẽ khác nhau.

Ví dụ 7: Trưởng lão Thích Thông Lạc kể lại rằng: thời Đức Phật mặc dù có nhiều người tu chứng, nhưng cũng có nhiều vị Tỳ kheo vẫn còn kiến chấp vì trước khi đến với Đức Phật đầu óc của họ đầy ắp những tà kiến của Lục sư ngoại đạo, vì thế họ vẫn hiểu lệch lạc giáo pháp của Đức Phật.

Ví dụ 8: Có người khi còn trẻ, sức khỏe tốt, răng chắc, hệ tiêu hóa ổn định thì thường thích ăn những đồ ăn giòn, tươi, không quá mềm. Còn lúc về già, sức khỏe kém, răng yếu, hệ tiêu hóa suy giảm thì thường thích ăn những thức ăn mềm, dễ tiêu hóa. Thì như vậy cái biết về ăn uống của họ bị nghiệp thân chi phối.

Ví dụ 9: Khi vào thất tu, sống độc cư không giao tiếp, tự nhiên thấy buồn chán, nên gặp ai cũng thích nói chuyện. Tâm thích nói chuyện là tâm đời bị nghiệp thế gian chi phối, nếu không ngăn và diệt tâm này thì tâm sẽ phóng dật, đó là kẻ hở để cho nhân quả xen vào phá vỡ con đường tu hành của mình, khiến cho mình không thể đi tới rốt ráo được.

Ví dụ 10: Có người biết chánh pháp, nỗ lực thực hiện Đức Hiếu Sinh nên ăn thực vật, nhưng do chưa xả sạch nghiệp thèm thức ăn động vật nên dù ăn chay nhưng thỉnh thoảng vẫn mơ thấy đi nhậu nhẹt với bạn bè ăn thịt chúng sanh. Thì như vậy, nghiệp thèm thịt động vật của người này tác động vào tưởng thức sanh chiêm bao.

Nếu người này đủ sức tĩnh giác thì ý thức sẽ biết và tác ý diệt trừ nghiệp thèm thịt chúng sanh trong giấc mơ liền.

Khi xả tâm chưa sạch thì nghiệp lực của chúng ta sẽ tác động vào tưởng thức sanh chiêm bao để thực hiện lòng ham muốn của nó.

Ví dụ 11: Trưởng lão Thích Thông Lạc kể rằng: Thầy tu hành từ thời Đức Phật, đến đời này khi gần 10 năm tu hành sai pháp, cuối cùng Thầy lấy cuốn Kinh Trung Bộ ra xem, đọc tới những câu như: “Khi tác ý một tướng khác thì tướng kia sẽ bị diệt” hoặc: “Quán ly tham tôi biết tôi hít vô, quán ly tham tôi biết tôi thở ra”, tức là gặp được pháp Như Lý Tác Ý, thì năng khiếu tu hành đúng chánh pháp từ kiếp xưa trỗi dậy, nên chỉ 6 tháng nỗ lực tu tập xả tâm bằng pháp Như Lý Tác Ý, Thầy đã chứng đạo, làm chủ hoàn toàn sanh, già, bệnh, chết.

Như vậy, sự nhận thức và hành động của chúng ta đối với nhân sinh quan và vũ trụ quan, tức là môi trường sống, phụ thuộc vào thói quen và kinh nghiệm bản thân, nghĩa là cái nhìn của chúng ta thường qua lăng kính nghiệp lực.

Cũng như cùng một bức tranh, nhưng người đeo kính màu đen sẽ nhìn bức tranh bị nhuốm màu đen, người đeo kính màu đỏ sẽ nhìn bức tranh bị nhuốm màu đỏ, người đeo kính không màu sẽ nhìn bức tranh rõ ràng chân thực.

Con người thường nhìn nhận sự việc qua lăng kính kinh nghiệm cá nhân nên tâm không giống nhau, tâm không giống nhau nên dẫn tới xung đột quan điểm, xung đột quan điểm dẫn tới những hành động làm khổ mình, khổ người và khổ cả hai.

Mục đích của Đạo Phật ra đời là giúp cho con người thoát khổ, muốn vậy phải xây dựng cho con người sự hiểu biết không có khổ đau. Cách thức tu tập để có được sự hiểu biết không khổ đau được gọi là Định Vô Lậu.

Do đó lớp đầu tiên của Đạo Phật là lớp Chánh Kiến, tức là cung cấp cái nhìn chân chánh như thật đối với các pháp xảy ra trong thế gian này để tâm không đau khổ. Bài học căn bản nhất của lớp Chánh kiến là tri kiến về nhân quả, giúp chúng ta hiểu rằng tất cả mọi vật, mọi việc và nói rộng ra là mọi pháp trên thế gian này đều diễn ra theo quy luật nhân quả. Nếu làm thiện sẽ được hưởng quả an vui, hạnh phúc, no ấm; nếu làm ác sẽ bị quả báo khổ đau, bất hạnh, bệnh tật, tai nạn, oan trái…

Vì thế, Trưởng lão Thích Thông Lạc dạy chúng ta: “Hãy nhìn đời bằng đôi mắt nhân quả thiện ác, chứ đừng thấy đúng sai phải trái” tức là xây dựng cho chúng ta “lăng kính hiểu biết” để nhìn nhận mọi sự vật, hiện tượng là nhân quả, nếu thấy đó là thiện pháp không làm khổ mình khổ người thì làm, còn ác pháp làm khổ mình khổ người thì không làm, tức là ngăn ác diệt ác, sanh thiện tăng trưởng thiện pháp. Do ngăn ác diệt ác, sanh thiện tăng trưởng thiện pháp nên tâm không đau khổ, tức là tâm được hạnh phúc, an vui, giải thoát.

Bình thường, ý thức chúng ta tự nhiên khởi niệm vọng tưởng là do nghiệp tham, sân, si tác động vào ý thức sanh những niệm này. Cho nên, tu hành theo Đạo Phật thì không diệt vọng tưởng, mà từ vọng tưởng đó mình phải triển khai tri kiến truy ra gốc nghiệp tham, sân, si của nó, sau đó tác ý diệt trừ nghiệp tham, sân, si thì tâm sẽ thanh thản, an lạc, vô sự.

Thân chúng ta như cây thảo mộc, nghiệp tham, sân, si chúng ta giống như chất dinh dưỡng tác động vào cây sanh ra cành lá, cành lá được ví như là vọng tưởng. Khi chúng ta ức chế tâm cho hết vọng tưởng cũng giống như việc vặt trụi cành lá, nếu vẫn còn chất dinh dưỡng nuôi cây thì cành lá sẽ mọc lại, thậm chí còn xanh tốt hơn nữa, như cây bàng mùa đông rụng lá, nhưng đến mùa xuân thì đâm chồi nảy lộc, cành lá xanh mơn mởn. Do vậy, chúng ta nhận thức rằng cây còn chất dinh dưỡng thì sẽ còn có thể mọc ra cành lá, nên chỉ cần chúng ta rút hết chất dinh dưỡng của cây thì tự động cành lá sẽ rụng sạch. Đối với con người cũng vậy, còn nghiệp tham, sân, si thì tâm còn đau khổ; xả nghiệp tham, sân, si thì tâm hết đau khổ. Cho nên, xả nghiệp tham, sân, si là xử lý cái gốc sanh ra sự đau khổ, chứ không phải xử lý cái ngọn là diệt vọng tưởng.

Đạo Phật nhắm vào gốc nghiệp tham, sân, si là nguyên nhân gây ra đau khổ để ngăn và diệt, khi ngăn và diệt nghiệp tham, sân, si thì tự động vọng tưởng sẽ thưa dần và không còn nữa, lúc này tâm sẽ thanh thản, an lạc và vô sự, một trạng thái giải thoát sáng suốt vô cùng. Ở trạng thái không có tham, sân, si, làm cho chúng ta luôn nhìn mọi sự vật hiện tượng rất là đúng đắn, chính xác không bị lòng ham muốn chi phối. Cho nên, người ta nói: “Bình thường tâm thị đạo”, chỉ cho trạng thái tâm bình thường không tham, sân, si thì trạng thái thanh thản, an lạc, vô sự hiện bày, đó là đạo.

Thầy Thông Lạc thường dạy chúng ta xả tâm như cục đất bằng cách triển khai tri kiến giải thoát và tác ý: “Tâm như cục đất, ly tham sân si cho thật sạch”, tức là xả ly nghiệp khổ, tạo nghiệp giải thoát, nghiệp giải thoát tức là tâm giải thoát.

Tâm giải thoát là tâm không dính mắc các pháp thế gian, tâm không dính mắc các pháp thế gian là tâm không phóng dật, tâm không phóng dật là tâm quay vào định trên thân, tâm định trên thân là trạng thái tâm toàn thiện, vì thế Đức Phật dạy: “Ta thành chánh giác là nhờ tâm không phóng dật, muôn pháp lành từ đó mà sanh ra”.

Như đã nói ở trên, tâm là cái biết của 6 căn: mắt, tai, mũi, miệng, thân, ý, trong đó ý căn dẫn đầu điều khiển 5 căn còn lại, “ý làm chủ, ý tạo tác, ý dẫn đầu các pháp”.

Sáu căn này thường tiếp xúc với sáu trần: sắc, thinh, hương, vị, xúc, pháp sanh ra dính mắc nên tâm bị động, tâm bị động thì các hành động do tâm điều khiển sẽ tạo nghiệp tham, sân, si. Và chính nghiệp tham, sân, si này sẽ tác động vào tâm như là một kinh nghiệm hay quán tính của tâm.

Vì vậy ta tác ý bảo vệ tâm bất động có nghĩa là xả tâm không bị dính mắc, không chạy theo và không dao động trước các pháp trần. Tâm bất động không phải là tâm không niệm, không biết, không ngơ, vì tâm luôn có 6 cái biết, nên nó luôn sáng suốt và hiểu biết đầy đủ.

Chúng ta thấy rằng nghiệp sẽ tác động vào tâm và ngược lại tâm sẽ tạo nghiệp. Nếu tâm bị nghiệp chi phối thì sẽ hành động theo lòng ham muốn và tiếp tục tạo nghiệp tham, sân, si để thọ khổ. Nếu tâm được trang bị tri kiến hiểu biết Định Vô Lậu thì sẽ ngăn và diệt nghiệp ác để tạo nghiệp không khổ đau, tức là nghiệp giải thoát.

Thầy Thông Lạc thường dạy: “Sống là sự trả nghiệp, chứ không phải là sự tham đắm” để nhắc chúng ta xả tâm ly dục ly ác pháp, nhờ tâm ly dục ly dục ly ác pháp nên chúng ta sẽ thực hiện một đời sống đạo đức không làm khổ mình, khổ người và khổ chúng sanh.

Tóm lại, nghiệp là từ trường của hành động thân, khẩu, ý do tâm điều khiển, nghiệp nằm ngoài thân ngũ uẩn và tác động vào thân ngũ uẩn, còn tâm là cái biết tổng hợp của 6 thức trong thân ngũ uẩn. Nghiệp do tâm tạo và tâm là thể hiện của nghiệp. Muốn tâm thanh thản, an vui thì tâm phải ngăn và diệt nghiệp ác, tăng trưởng nghiệp thiện, sống không làm khổ mình khổ người.

TM. Ban Biên Tập

Sc. Nguyên Thanh

Đọc thêm

Leave a Comment

  • Tri Kiến Giải Thoát

    1 năm trước

    "Thầy Thông Lạc thường dạy: “Sống là sự trả nghiệp, chứ không phải là sự tham đắm” để nhắc chúng ta xả tâm ly dục ly ác pháp, nhờ tâm ly dục ly dục ly ác pháp nên chúng ta sẽ thực hiện một đời sống đạo đức không làm khổ mình, khổ người và khổ chúng sanh." (Sc. Nguyên Thanh)

    • Cảm hứng
    • Bỏ chọn
    9

    Các tương tác cảm xúc

    Tất cả
    9
    Bạn
    • 2 người khác thấy bổ ích
    • 2 người khác thấy cảm hứng
    • 3 người khác thấy xúc động
    Phản hồi
    Báo bình luận vi phạm

    @Tri Kiến Giải Thoát

  • Tri Kiến Giải Thoát

    1 năm trước

    "Chúng ta thấy rằng nghiệp sẽ tác động vào tâm và ngược lại tâm sẽ tạo nghiệp. Nếu tâm bị nghiệp chi phối thì sẽ hành động theo lòng ham muốn và tiếp tục tạo nghiệp tham, sân, si để thọ khổ. Nếu tâm được trang bị tri kiến hiểu biết Định Vô Lậu thì sẽ ngăn và diệt nghiệp ác để tạo nghiệp không khổ đau, tức là nghiệp giải thoát." (Sc. Nguyên Thanh)

    • Cảm hứng
    • Bỏ chọn
    8

    Các tương tác cảm xúc

    Tất cả
    8
    Bạn
    • 2 người khác thấy bổ ích
    • 2 người khác thấy cảm hứng
    • 3 người khác thấy xúc động
    Phản hồi
    Báo bình luận vi phạm

    @Tri Kiến Giải Thoát

  • Tri Kiến Giải Thoát

    1 năm trước

    "Bình thường, ý thức chúng ta tự nhiên khởi niệm vọng tưởng là do nghiệp tham, sân, si tác động vào ý thức sanh những niệm này. Cho nên, tu hành theo Đạo Phật thì không diệt vọng tưởng, mà từ vọng tưởng đó mình phải triển khai tri kiến truy ra gốc nghiệp tham, sân, si của nó, sau đó tác ý diệt trừ nghiệp tham, sân, si thì tâm sẽ thanh thản, an lạc, vô sự." (Sc. Nguyên Thanh)

    • Cảm hứng
    • Xúc động
    6

    Các tương tác cảm xúc

    Tất cả
    6
    Bạn
    • 2 người khác thấy bổ ích
    • 2 người khác thấy cảm hứng
    • 2 người khác thấy xúc động
    Phản hồi
    Báo bình luận vi phạm

    @Tri Kiến Giải Thoát

  • Tri Kiến Giải Thoát

    1 năm trước

    "Vì thế, Trưởng lão Thích Thông Lạc dạy chúng ta: “Hãy nhìn đời bằng đôi mắt nhân quả thiện ác, chứ đừng thấy đúng sai phải trái” tức là xây dựng cho chúng ta “lăng kính hiểu biết” để nhìn nhận mọi sự vật, hiện tượng là nhân quả, nếu thấy đó là thiện pháp không làm khổ mình khổ người thì làm, còn ác pháp làm khổ mình khổ người thì không làm, tức là ngăn ác diệt ác, sanh thiện tăng trưởng thiện pháp. Do ngăn ác diệt ác, sanh thiện tăng trưởng thiện pháp nên tâm không đau khổ, tức là tâm được hạnh phúc, an vui, giải thoát." (Sc. Nguyên Thanh)

    • Cảm hứng
    • Bỏ chọn
    7

    Các tương tác cảm xúc

    Tất cả
    7
    Bạn
    • 2 người khác thấy bổ ích
    • 2 người khác thấy cảm hứng
    • 2 người khác thấy xúc động
    Phản hồi
    Báo bình luận vi phạm

    @Tri Kiến Giải Thoát

  • Tri Kiến Giải Thoát

    1 năm trước

    "Vậy tâm là gì?

    Tâm chính là cái biết của 6 căn: mắt, tai, mũi, miệng, thân, ý. Trong 6 căn này, ý căn làm chủ điều khiển 5 căn còn lại.

    Cái biết của mắt, tai, mũi, miệng, thân gọi là các giác quan, còn ý thức là trung ương để tổng hợp và ra quyết định." (Sc. Nguyên Thanh)

    • Cảm hứng
    • Bỏ chọn
    7

    Các tương tác cảm xúc

    Tất cả
    7
    Bạn
    • 2 người khác thấy bổ ích
    • 2 người khác thấy cảm hứng
    • 2 người khác thấy xúc động
    Phản hồi
    Báo bình luận vi phạm

    @Tri Kiến Giải Thoát

  • Tri Kiến Giải Thoát

    1 năm trước

    "Nếu chúng ta hành động ác làm khổ mình khổ người thì sẽ tạo ra nghiệp ác, nghiệp ác là từ trường ác, từ trường này sẽ luôn luôn theo chúng ta và tác động vào thân tâm làm cho chúng ta bị tai nạn, bệnh tật, hờn giận, phiền não, bất an... để trả quả khổ.

    Nếu chúng ta hành động thiện không làm khổ mình khổ người thì sẽ tạo ra nghiệp thiện, nghiệp thiện là từ trường thiện, từ trường này sẽ luôn luôn theo chúng ta, tác động vào thân tâm làm cho chúng ta hạnh phúc, no đủ, an vui, thanh thản để ta hưởng phước thiện." (Sc. Nguyên Thanh)

    • Cảm hứng
    • Bỏ chọn
    8

    Các tương tác cảm xúc

    Tất cả
    8
    Bạn
    • 2 người khác thấy bổ ích
    • 3 người khác thấy cảm hứng
    • 2 người khác thấy xúc động
    Phản hồi
    Báo bình luận vi phạm

    @Tri Kiến Giải Thoát

  • Tri Kiến Giải Thoát

    1 năm trước

    "Như vậy, nghiệp của chúng ta là những từ trường hành động thiện ác xuất phát từ thân, khẩu, ý và nghiệp này nằm ngoài thân ngũ uẩn. Cái gì mà chúng ta thường hay làm lặp đi lặp lại nhiều lần trở thành thói quen thì đó gọi là nghiệp lực. Nghiệp là từ trường vô hình, nhưng chúng ta vẫn biết được sự tác động của nó." (Sc. Nguyên Thanh)

    • Cảm hứng
    • Bỏ chọn
    7

    Các tương tác cảm xúc

    Tất cả
    7
    Bạn
    • 2 người khác thấy bổ ích
    • 2 người khác thấy cảm hứng
    • 2 người khác thấy xúc động
    Phản hồi
    Báo bình luận vi phạm

    @Tri Kiến Giải Thoát

  • Tri Kiến Giải Thoát

    1 năm trước

    "Đức Phật dạy, con người là thừa tự của nghiệp, nghiệp là thai tạng của con người, cho nên nghiệp nằm ngoài thân ngũ uẩn. Nếu nghiệp ở trong thân ngũ uẩn thì khi chúng ta chết là hết nghiệp, hết nghiệp là hết tham sân si, hết tham sân si là chấm dứt tái sanh. Có phải không? Nhưng không phải như vậy!" (Sc. Nguyên Thanh)

    • Cảm hứng
    • Bỏ chọn
    7

    Các tương tác cảm xúc

    Tất cả
    7
    Bạn
    • 2 người khác thấy bổ ích
    • 2 người khác thấy cảm hứng
    • 2 người khác thấy xúc động
    Phản hồi
    Báo bình luận vi phạm

    @Tri Kiến Giải Thoát

  • Tri Kiến Giải Thoát

    1 năm trước

    Đức Phật dạy trong kinh Pháp cú:

    “Ý dẫn đầu các pháp

    Ý chủ, ý tạo tác

    Nếu với ý nhiễm ô

    Nói năng hay hành động

    Khổ não bước theo sau

    Như xe theo vật kéo”

    --o0o--

    “Ý dẫn đầu các pháp

    Ý chủ, ý tạo tác

    Nếu với ý thanh tịnh

    Nói năng hay hành động

    An lạc bước theo sau

    Như bóng không rời hình”

    • Cảm hứng
    • Bỏ chọn
    7

    Các tương tác cảm xúc

    Tất cả
    7
    Bạn
    • 2 người khác thấy bổ ích
    • 2 người khác thấy cảm hứng
    • 2 người khác thấy xúc động
    Phản hồi
    Báo bình luận vi phạm

    @Tri Kiến Giải Thoát

Đọc thêm
Tư liệu tham khảo
Xem thêm
Chia sẻ
Ngày đăng: 26 Tháng Mười, 2023, 20:45
Bài viết liên quan
Dục là gì?

Nguyên Thanh

Tóm lại, khi sáu căn tiếp xúc với sáu trần thì sinh ra các cảm thọ, các cảm thọ sinh ra dục, từ dục con người mới sinh ra dính mắc các pháp trần, do dính mắc các pháp trần nên mới sinh ra tâm tham, sân, si, tức là dục tham, dục sân, dục si để tạo nghiệp tham, sân, si khiến con người phải chịu nhiều ưu bi, sầu khổ, bệnh, chết. Cho nên, phải tu tập theo lộ trình Bát Chánh Đạo để ly dục ly ác pháp, tức là giữ tâm bất động trước ác pháp và cảm thọ, thì tâm sẽ được giải thoát khổ đau.

Hạnh nghiệp nhân quả

Nguyên Thanh

Tóm lại, muốn thấy được gốc rễ cần phải nhìn xuyên qua cành lá, muốn hiểu được bản chất của vấn đề thì phải nhìn xuyên qua các hiện tượng. Con người trên thế gian này hạnh phúc hay khổ đau, bệnh tật hay khỏe mạnh đều do hạnh nghiệp nhân quả mà ra. Vì vậy, hãy tự mình thắp lên ngọn đuốc đạo đức nhân quả, sống không làm khổ mình khổ người, mới có thể chuyển đổi được nghiệp khổ thành cuộc sống hạnh phúc, an vui, giải thoát.

Pháp tu cho người già

Nguyên Thanh

Tóm lại, pháp tu của người già là ngồi chơi xả tâm, tức là tu Tứ Niệm Xứ trên Tứ Niệm Xứ. Khi có chướng ngại nào xảy ra trên bốn chỗ thân, thọ, tâm, pháp, thì dùng pháp Như Lý Tác Ý đuổi đi cho thật sạch để bảo vệ chân lý thanh thản, an lạc, vô sự. Cứ siêng năng tu tập đến khi tâm đủ nội lực bất động trước cận tử nghiệp thì không còn tái sanh luân hồi.

Chánh niệm tĩnh giác để xả tâm

Nguyên Thanh

Tóm lại, hàng ngày trong mọi công việc chúng ta cần nương theo thân hành để tập Chánh Niệm Tĩnh Giác, nhờ sức tĩnh giác này mà tâm bình tĩnh dùng tri kiến đạo đức nhân bản – nhân quả điều khiển hành động thân, khẩu, ý không làm khổ mình khổ người, đó chính là “sống là tu, tu là sống” để đem lại sự hạnh phúc, an vui cho mình và mọi người.

Lòng từ đối trị tâm sân trong đời sống

Nguyên Thanh

Tóm lại, lòng từ như cơn gió mát, thổi đến đâu sẽ xua tan đi cái nóng bức, ngột ngạt tỏa ra từ tâm sân hận đến đó. Cho nên, chúng ta cần phải cố gắng trau dồi lòng từ trong các hành động sống hàng ngày để lòng từ là mình, mình là lòng từ, thì tâm ta sẽ không còn chướng ngại và dung thông với vạn hữu trong tình thương yêu và tha thứ. Nếu thực hành được như vậy, cuộc sống của chúng ta ngày càng trở nên vui tươi, hạnh phúc và bình an.

Tầm tứ

Nguyên Thanh

Tóm lại, tầm là tư duy suy nghĩ, tứ là tác ý. Tầm, tứ thuộc về ý thức của con người, là công cụ quan trọng nhất để tu hành, cho nên chúng ta không diệt tầm tứ, mà sử dụng tầm tứ để dẫn tâm vào đạo bằng cách triển khai tri kiến phân biệt cho thật rõ pháp nào là ác, pháp nào là thiện, rồi dùng pháp Như Lý Tác Ý đoạn dứt pháp ác, an trú tâm trong pháp thiện, xây dựng cho mình cuộc sống hạnh phúc, an vui, giải thoát.

Làm chủ lời nói

Nguyên Thanh

Tóm lại, trong giao tiếp với mọi người thì phải chánh niệm tĩnh giác quán xét cả nội tâm lẫn ngoại cảnh, tức là biết toàn diện, biết toàn diện là nhìn đời bằng đôi mắt nhân quả để ứng xử với nhau trên tinh thần không làm khổ mình khổ người, thì sẽ khắc phục được vấn đề chen ngang và áp đặt ý kiến của mình lên người khác, đó là làm chủ lời nói.

Thọ Bát Quan Trai

Nguyên Thanh

Như vậy, đối với một người còn sống giao tiếp thì giữ 5 tiêu chuẩn đạo đức làm người, nhìn đời bằng đôi mắt nhân quả, thỉnh thoảng thọ Bát Quan Trai để thực hiện đời sống không làm khổ mình khổ người, sống không làm khổ mình khổ người là giới luật, mà giới luật chính là nền tảng đạo đức, là cội gốc của thiền định, là bông trái của trí tuệ, do vậy đời sống đạo đức rất quan trọng đối với người tu hành giải thoát.

Làm chủ cái ngủ

Nguyên Thanh

Tóm lại, tu đúng là làm chủ cái ngủ, làm chủ cái ngủ là tu. Muốn làm chủ cái ngủ thì phải giữ gìn giới luật nghiêm chỉnh, giữ gìn giới luật nghiêm chỉnh là triển khai tri kiến giải thoát, triển khai tri kiến giải thoát thì phải thông suốt Định Vô Lậu và rèn luyện chánh niệm tĩnh giác, đó là những vũ khí chính để xả tâm tham, sân, si, quét sạch hôn trầm, nhường chỗ cho tâm thanh thản, an lạc, giải thoát.

Bố thí chúng sanh

Nguyên Thanh

Tóm lại, sự bố thí, làm từ thiện phải thực hiện đúng lộ trình nhân quả: nếu chúng sanh sống thiện mà gặp khó khăn thì chúng ta nên giúp đỡ để họ tiếp tục sống thiện; còn nếu chúng sanh sống ác mà gặp khó khăn thì ta nên để họ tự trả nhân quả; nếu chúng ta giúp đỡ chúng sanh mà tạo duyên phát sinh ác pháp cản trở tức là chúng sanh chưa đủ duyên phước để nhận sự giúp đỡ này, thì chúng ta nên dừng lại, hoặc là khuyên nhủ họ nên sống thiện bồi đắp phước đức để chuyển đổi nhân quả.

Pháp sai chứ người không sai

Nguyên Thanh

Tóm lại, pháp sai chứ người không sai. Vì pháp sai nên làm cho con người bị ức chế tâm trong hình thức giới luật, tiến lên thì không được mà lùi xuống thì phạm giới, nên kiểu gì cũng bị khổ đau. Còn khi gặp đúng chánh pháp, giúp chúng ta biết cách triển khai tri kiến xả tâm, ly dục ly ác pháp, hóa giải mọi chướng ngại trong lòng để tâm trở về trạng thái thanh thản, an lạc, vô sự, vượt qua nhân quả, vững bước tiến lên trên con đường giải thoát.

Tái sanh

Nguyên Thanh

Tóm lại, nghiệp tương ưng tái sanh luân hồi, tạo ra sự sống mới, khổ đau hay hạnh phúc đều do hạnh nghiệp mà ra. Nghiệp do tâm tạo, cho nên chúng ta phải biết thương tâm nghiệp lực của mình, thương tâm nghiệp lực của mình thì phải biết triển khai tri kiến nhìn đời bằng đôi mắt nhân quả để sống không làm khổ mình khổ người thì sẽ tiến hóa trên con đường thiện, giải thoát tâm mình ra khỏi mọi sự khổ đau và chấm dứt tái sanh luân hồi.

Sống tích cực

Nguyên Thanh

Tóm lại, càng siêng năng quét nhà thì nhà càng sạch, càng siêng năng xả tâm thì tâm càng sáng. Muốn tâm thanh tịnh thì phải trực tiếp trong mọi cảnh phản tỉnh tâm mình, luôn ngăn ác diệt ác pháp để tâm không còn chướng ngại, nên tâm dung thông với vạn hữu trong tình thương yêu và tha thứ, đó chính là hạnh phúc chân thật của cuộc đời.

Hành trang cho con

Nguyên Thanh

Tóm lại, bậc làm cha mẹ hãy đứng trên lập trường đạo đức nhân quả để nuôi dạy các con của mình biết ăn chay vì đức hiếu sinh theo tinh thần 5 tiêu chuẩn đạo đức làm người, biết thương yêu chia sẻ sự sống với mọi người, biết trau dồi lòng từ để rèn luyện sức tĩnh giác, biết giữ gìn vệ sinh môi trường sống và hướng theo chánh nghiệp để xây dựng cho mình một cuộc sống hạnh phúc, bình an, no ấm.

Ly dục ly ác pháp tâm bất động

Nguyên Thanh

Tóm lại, dục và ác pháp là nguyên nhân gây ra sự khổ đau cho con người. Để ly dục ly ác pháp thì chúng ta cần phải thực tập và rèn luyện theo đúng lộ trình Bát Chánh Đạo. Khi tâm ly dục ly ác pháp thì trạng thái bất động, thanh thản, an lạc, vô sự hiện ra, đó chính là chân lý giải thoát của Đạo Phật.

Đăng ký
Đăng nhập với tên người dùng và mật khẩu
Khôi phục mật khẩu
Vui lòng nhập email đã đăng ký tài khoản, chúng tôi sẽ gửi email đổi mật khẩu đến hộp thư của bạn
Đăng nhập trang web
Khôi phục mật khẩu
Cách khác để đăng nhập
Đăng ký
Chia sẻ

Đã copy liên kết vào bộ nhớ tạm