Nội dung mô tả

Tóm lại, nếu thấu rõ đời người là những vở tuồng nhân quả diễn ra trên bốn sân khấu: thân, thọ, tâm, pháp, dưới bàn tay đạo diễn của nghiệp lực, chúng ta cần phải sống thuận đạo lý nhân quả, không làm khổ mình khổ người, thì chân lý giải thoát sẽ hiện tiền trong tâm, giúp ta sống bình an trong nghiệp quả của mình.

– Nguyên Thanh

Quý bạn đọc vui lòng chọn định dạng pdf hoặc epub, rồi nhấn nút “Đọc” ở trên để đọc toàn bộ nội dung bài triển khai tri kiến giải thoát này, hoặc xem trực tiếp như sau:

Ngày 04 tháng 2 năm 2025

DIỄN BIẾN NHÂN QUẢ CON NGƯỜI

Phật tử T.T thưa hỏi

Hỏi: Dạ con chào sư cô ạ, kính thưa sư cô!

Gần đây báo chí và mạng truyền thông có đăng tải nhiều hiện tượng xảy ra trong xã hội và trong các trú xứ tôn giáo trên thế giới, trong đó có những người theo học giáo lý của Đức Thế Tôn, làm con hoang mang, dao động, không biết đâu là thật, đâu là giả, vì những hành động đó khác xa với giáo lý của Đức Phật dạy. Con hiểu tất cả sự việc xảy ra đều có liên quan tới nhân quả, con cố gắng triển khai tri kiến xả tâm nhưng những video đó cứ làm con phải suy nghĩ. Xin sư cô chỉ cho con phải nhìn nhận sự việc như thế nào? Và chúng con phải nương tựa vào đâu để tu hành? Con xin chân thành cảm ơn sư cô!

Đáp: Kính gửi chị T.T!

Để giải quyết câu hỏi của chị, chúng ta tập trung phân tích ba vấn đề sau: Thứ nhất, lập trường nhìn nhận mọi sự việc trong cuộc đời ra sao để tâm không hoang mang, dao động. Thứ hai, sự thật cần tìm ở đâu? Thứ ba, nương tựa vào đâu để tu hành giải thoát?

1- NHÌN ĐỜI BẰNG ĐÔI MẮT NHÂN QUẢ

Trên thế gian này không có sự vật hiện tượng nào xảy ra một cách ngẫu nhiên, mà đều có nguyên do. Nghĩa là, có nguyên nhân thì mới có kết quả. Vì vậy, Đức Phật dạy: “Con người sinh ra từ nhân quả, sống trong nhân quả, chết trở về với nhân quả”, hay nói một cách khác: “Con người sinh ra từ môi trường sống, sống trong môi trường sống, chết lại trở về với môi trường sống”. Điều này có nghĩa là tất cả mọi việc trên đời này đều không ngoài nhân quả, mà nhân quả là quy luật duyên hợp giữa các duyên trong môi trường sống này.

Nói đến môi trường sống là nói đến vật chất tứ đại (đất, nước, gió, lửa) và các từ trường, tức là thiên nhiên, vũ trụ, đất đá, núi sông, cỏ cây, hoa lá, côn trùng, động vật, con người, văn hóa, xã hội, tư tưởng, học thuyết… và các loại từ trường hành động của mọi vật, trong đó có con người.

Các pháp đều do duyên hợp mà thành, hết duyên thì tan hoại. Vì tự các duyên kết hợp với nhau quyết định nên trạng thái của các pháp và khi tan rã thì các pháp cũng không còn, cho nên trạng thái của các pháp là công bằng theo sự vận hành của các duyên, chứ không có ai điều khiển các pháp đó. Do vậy, thành cũng do duyên mà hoại cũng do duyên, đó là quy luật sanh diệt nhân quả của tất cả các pháp trong thế gian này.

Nhân quả là duyên hợp, cho nên nhân quả luôn công bằng và tuyệt đối công bằng.

Nếu hiểu rõ sự công bằng của luật nhân quả thì tâm chúng ta không bao giờ hoang mang, dao động. Còn nếu tâm bị hoang mang, dao động, có nghĩa là chúng ta chưa hiểu rõ luật nhân quả.

Muốn hiểu rõ được nhân quả và sự công bằng của luật nhân quả, thì chúng ta hãy bắt đầu bằng một ví dụ thực tế, cụ thể, rõ ràng, trực quan, phổ biến mà tất cả mọi người đều có thể dễ dàng nhận thấy được, đó là nhân quả thảo mộc.

Đối với loài thảo mộc, khi gieo nhân cam hợp đủ với các duyên khác như thiên nhiên vũ trụ (thời tiết, khí hậu, đất đai…), động vật, côn trùng, con người, thì từ nhân cam đó sẽ mọc lên thành cây cam, cho ra những quả cam, không những một quả cam mà nhiều quả cam. Trong một quả cam chứa nhiều nhân cam.

Như vậy, gieo nhân cam thì cho ra những quả cam, đó là nhân nào quả nấy rất thực tế, rõ ràng, cụ thể, khoa học.

Quan sát cây cam, chúng ta thấy rằng, về hình dạng, có quả non, quả già, quả to, quả nhỏ; có quả màu xanh, quả màu vàng; có quả tròn, quả bị ong chích nổi u nần; có quả xanh trong bóng râm, có quả rám nắng do mặt trời chiếu, v.v. Về tính chất bên trong, có quả ngọt, quả nhạt; có quả nhiều nước, quả ít nước; có quả nhiều hạt, quả ít hạt; có quả chứa nhiều vitamin C, có quả chứa ít vitamin C, v.v.

Do vậy, đặc tướng, đặc tính của quả cam phụ thuộc vào các duyên hợp nên quả cam đó, tức là nhân như vậy hợp với những duyên như vậy thì quả phải như vậy, đó là sự công bằng của quy luật duyên hợp.

Với tất cả các loài thảo mộc khác như ớt, xoài, bưởi, mít, đu đủ… cũng tương tự.

Như vậy, đối với loài thảo mộc, thì nhân nào quả nấy, một nhân cho ra nhiều quả, trong một quả chứa nhiều nhân, đặc tướng đặc tính nhân quả phụ thuộc vào các duyên, nhân quả thảo mộc luôn công bằng theo duyên hợp.

Nhân quả con người cũng giống như nhân quả thảo mộc, cũng rõ ràng, khoa học, công bằng, nhưng trừu tượng hơn, vì không dễ quan sát trực quan như loài thảo mộc.

Vậy, đường đi nhân quả con người như thế nào? Con người gieo nhân từ đâu và nhận quả ở chỗ nào?

Nhân là hành động mà con người tác động vào môi trường, còn quả là kết quả mà con người nhận được từ môi trường tác động trở lại. Cụ thể:

Nhân là từ trường của hành động thân, khẩu, ý do vô minh điều khiển, gọi là nghiệp nhân.

Quả là những diễn biến xảy ra trên bốn chỗ: thân, thọ, tâm, pháp của con người tương ưng với nghiệp nhân đã tạo. Mọi sự kiện xảy ra đối với con người đều không ngoài bốn chỗ: thân, thọ, tâm, pháp. Nó là bốn chỗ mà nghiệp tương ưng với các duyên tác động vào đời sống của một con người, ngoài bốn chỗ này thì không phải là đời sống của con người.

˗ Thân: là cơ thể con người.

˗ Thọ là cảm giác nơi thân, gồm có 3 cảm giác: Cảm giác an lạc; cảm giác đau khổ; cảm giác không an lạc, không đau khổ.

˗ Tâm là những niệm gồm có: Niệm lăng xăng (vọng tưởng); không niệm là tâm yên lặng, bất động.

˗ Pháp là âm thanh, sắc tướng, thời tiết, nắng mưa, gió bão, mọi sự việc gia đình, xã hội, tài sản, công việc… tác động vào thân tâm chúng ta.

Đức Phật dạy: “Nghiệp tương ưng tái sanh luân hồi”, nghĩa là con người từ nghiệp sanh ra. Nghiệp tương ưng với các duyên hợp như cha, mẹ, thời tiết, khí hậu, thức ăn… để hình thành nên thân người, và liên tục hợp với các duyên tứ đại để phát triển từ bào thai nhỏ trở thành đứa bé, rồi lớn lên thành thanh niên và cuối cùng già đi rồi chết, đó là chu kỳ sống điển hình của một con người bình thường. Đây là nghiệp quả trên thân của mỗi người từ sanh đến diệt, luôn thay đổi theo thời gian.

Trong quá trình sống của con người thì luôn luôn xuất hiện những cảm thọ. Khi thì khó chịu vì thời tiết nóng bức hoặc lạnh lẽo, lúc thì dễ chịu trước làn gió mát. Có lúc ngứa ngáy, đau nhức do bệnh tật, có lúc thân khỏe mạnh an lạc. Đôi khi buồn bã vì những điều bất toại nguyện, hay tức giận trước cảnh trái ý nghịch lòng, hoặc hân hoan khi thỏa lòng, đắc ý. Cũng có lúc không buồn cũng không vui, tâm bình lặng như mặt hồ không gợn sóng… Tất cả những cảm giác đó là nhân quả xảy ra trên thọ của mỗi người, luôn sinh diệt, thay đổi theo các duyên.

Tâm con người như con vượn chuyền cây, hết nghĩ chuyện này đến chuyện khác, không lúc nào ngơi nghỉ, ngoại trừ những lúc ngủ say. Đây là nghiệp quả trên tâm của mỗi người.

Hành trình của đời người là một dòng chảy không ngừng biến đổi, từ lúc sinh ra cho đến khi nhắm mắt lìa đời. Mọi hoàn cảnh xung quanh ta luôn vận động không ngừng nghỉ. Thiên nhiên, thời tiết, khí hậu, hay chính nơi ta sinh sống cũng thay đổi từng ngày. Dù có bốn mùa xuân, hạ, thu, đông, nhưng chẳng mùa nào giống mùa nào, chẳng ngày nào lặp lại ngày trước, cho nên: “Không ai tắm hai lần trên một dòng sông” là như vậy.

Con người sinh ra trong sự yêu thương và chăm sóc của cha mẹ. Có bữa ăn đạm bạc, có bữa ăn đủ đầy; có lúc no ấm, có lúc đói khát. Sự dạy dỗ của cha mẹ cũng tùy, lúc dịu dàng, khi nghiêm khắc, thậm chí có những lúc phải dùng đến roi vọt. Trong gia đình, lúc sum vầy, lúc thì mỗi người một việc, có lúc thì ly tán, biệt ly sanh tử. Còn trong cộng đồng, kẻ thế này, người thế khác, tất bật lo toan cho đời sống. Dòng đời vẫn không ngừng trôi…

Tuổi thơ trôi qua giữa tiếng cười vui chơi và những lần va chạm, cãi vã. Bạn bè lúc thân thiết, lúc giận hờn, rồi ai cũng lớn lên, mỗi người một hướng. Những năm tháng cắp sách đến trường, ta gặp biết bao thầy cô, bạn bè, tiếp thu bao lời dạy dỗ, để chuẩn bị bước vào đời với biết bao hoài bão. Khi trưởng thành, ai cũng lao vào dòng chảy mưu sinh giữa dòng đời xuôi ngược, chứng kiến bao nhiêu cảnh nhân tình thế thái, nếm đủ mùi vinh nhục…

Rồi tuổi già cũng đến như một lẽ tự nhiên. Thân xác hao mòn, lưng còng, chân chậm, mắt mờ, tai điếc, như mặt trời xế bóng buổi chiều tà. Nhìn lại cuộc đời như gió thoảng mây trôi, được mất, thành bại rồi cũng phải gửi nắm xương tàn vùi trong lòng đất lạnh, để rồi nghiệp tiếp tục tương ưng luân hồi, khởi đầu một kiếp nhân sinh quay cuồng bất tật…

Nhưng luân hồi không chỉ bắt đầu khi ta chết đi, mà ngay trong đời sống hiện tại, từng hành động, lời nói, ý nghĩ mang tính chất tham, sân, si, thì sẽ tương ưng với nghiệp tham, sân, si của người hay chúng sanh khác để tái sanh, chứ không đợi đến lúc nhắm mắt mới tái sanh luân hồi.

Đó là những diễn biến nghiệp quả xảy ra trên mặt trận pháp của con người, luôn luôn sanh diệt, đổi thay liên tục…

Con người tạo nghiệp nhân từ những hành động trên thân, khẩu, ý và nhận quả trên là những diễn biến xảy ra trên bốn chỗ: thân, thọ, tâm, pháp, đó là chu trình nhân quả của đời sống của một con người, ngoài bốn chỗ thân, thọ, tâm, pháp thì không phải là đời sống con người.

Chúng ta xét thêm một số ví dụ để thấy được nhân quả con người xảy ra trên bốn chỗ thân, thọ, tâm, pháp một cách cụ thể hơn:

• Nhân quả trên thân người:

˗ Có người tạo nghiệp thân nam, thì tái sanh làm thân người nam. Có người tạo nghiệp thân nữ, thì tái sanh làm thân người nữ. Có người tạo nghiệp thân nam nhưng tính cách nữ, thì tái sanh làm người có thân nam nhưng tính cách nữ. Có người tạo nghiệp thân nữ nhưng tính cách nam, thì tái sanh làm người có thân nữ nhưng tính cách nam.

˗ Nghiệp của người giữ gìn đức hiếu sinh, không giết hại, không ăn thịt, không đánh đập chúng sanh, sẽ tái sanh làm thân người khỏe mạnh, sống lâu và ít bệnh tật.

Ngược lại, người tạo nghiệp sát sanh khi sinh ra thường phải chịu nhiều bệnh tật, cơ thể không khỏe mạnh, tuổi thọ ngắn, thậm chí có người yểu tử, đoản mạng do đã cướp đi sự sống của nhiều chúng sanh.

˗ Người tạo nghiệp bố thí, chia sẻ, giúp đỡ sự sống cho người và các chúng sanh khác, thì tái sanh vào gia đình giàu có, cơm ăn, áo mặc đầy đủ, thậm chí có cả người hầu, kẻ hạ.

Ngược lại, người tạo nghiệp ích kỷ, bỏn xẻn, phá tán tài sản của người và các loài vật, thì tương ưng tái sanh vào gia đình cơm không đủ ăn, áo không đủ mặc, thậm chí là tương ưng làm những chúng sanh nhỏ nhít như kiến, trùng để thọ hưởng phước báu cực kỳ ít ỏi, đời sống eo hẹp, sự sống mong manh.

˗ Người luôn thương yêu mọi người thì từ trường thương yêu đó sẽ chiêu cảm sự thương mến của những người và chúng sanh khác.

Người trau dồi lòng từ thì tái sanh có thân tướng đẹp, khỏe mạnh, khuôn mặt phúc hậu, từ ái.

Ngược lại, người luôn ghét bỏ người khác thì từ trường đó sẽ chiêu cảm sự ghét bỏ của những người và chúng sanh khác.

Có tu sinh đọc báo viết, có người sinh ra với khuôn mặt u nần, gớm ghiếc, bèn hỏi Trưởng lão Thích Thông Lạc là do nguyên nhân nào? Thầy trả lời, người này đời trước nhìn ai cũng khởi ác ý, thấy ghét, nên nghiệp đó thành tựu tái sanh chiêu cảm thân người có khuôn mặt u nần khó coi, để ai nhìn vào cũng thấy gớm ghiếc, không có thiện cảm.

• Nhân quả trên cảm thọ con người:

˗ Người tạo nghiệp sát sanh, thì thân thường bệnh tật, tâm thường bất an.

˗ Người tham lam, làm việc bất chính, thì tâm lo lắng, bất an.

˗ Người hay đố kỵ, thì tâm thường khó chịu trước thành công của người khác.

˗ Người hay nghi ngờ, thì luôn có cái nhìn phòng thủ trước mọi người, mọi việc, họ không tin tưởng bất kỳ ai, bất kỳ việc gì, thường hay do dự, dò xét, do vậy mà tâm bất an.

˗ Người giữ đức hiếu sinh, tôn trọng sự sống mọi người, thì thân thể khỏe mạnh, an lạc, tâm hồn thảnh thơi, thoải mái.

˗ Người hay làm việc tốt, giúp đỡ mọi người không vụ lợi, thì tâm được bình an.

• Nhân quả trên tâm con người:

˗ Người hay phóng dật thì tâm bất an.

˗ Người luôn thấy lỗi người khác thì tâm sanh chướng ngại.

˗ Người càng dính mắc các pháp thế gian, thì tâm càng sanh nhiều vọng tưởng bất an. Người càng buông xả thì tâm càng bình an.

˗ Người có những hành động ác, làm khổ mình khổ người, thì tâm hay khởi niệm vọng tưởng bất an, phiền não.

˗ Người sống thiện, không làm khổ mình khổ người thì tâm thường thanh thản.

• Nhân quả trên pháp của con người:

˗ Người luôn khởi tâm thương yêu, hòa hợp mọi người thì được mọi người đoàn kết, thương yêu. Nếu nghiệp này tái sanh thì sẽ tương ưng với gia đình, dòng họ đoàn kết, thương yêu, đùm bọc lẫn nhau.

Còn người khởi tâm chia rẽ mọi người, thì hay gặp cảnh xung đột, chia rẽ. Nếu nghiệp này tái sanh thì sẽ tương ưng vào gia đình bố mẹ bất hòa, dòng họ chia rẽ, cộng đồng không đoàn kết, hoặc đất nước chia cắt…

Trưởng lão Thích Thông Lạc dạy: Người tạo nghiệp chia rẽ quá nặng nề, nghiệp đó có thể chiêu cảm tai nạn để thân người đó phải chịu cảnh máu chảy thịt rơi, thân thể chia lìa.

˗ Người hay nói xấu người khác thì sẽ đánh mất đi sự kính trọng của mọi người và làm cho người khác khởi tâm công kích, nói xấu mình trở lại.

Nếu một người lên truyền thông nói xấu người, khiến cho nhiều người oán ghét, thì sẽ chiêu cảm rất nhiều người chống lại mình, gây nên cảnh gió tanh mưa máu bằng miệng lưỡi.

˗ Người hay cáo buộc người khác vô căn cứ, thì sẽ bị người khác vu khống mình không cần lý do.

˗ Trong gia đình, những người con có hiếu là vì chúng nợ cha mẹ trong nhân quả, nên nó thường chăm ngoan, lo lắng chu toàn cho cha mẹ. Còn những đứa con bất hiếu là vì cha mẹ nợ những đứa con này, cho nên nó sanh lên để đòi nợ, làm những hành động khiến cha mẹ phải hao tâm, tổn sức, khổ cực vô cùng.

˗ Người không hoàn thành trách nhiệm của mình trong nhân quả thì sẽ bị nhân quả xử bằng ác pháp. Ví dụ:

Người quét rác thiếu trách nhiệm để rác bẩn gây ô nhiễm, khiến nhiều người nhiễm bệnh, thì người đó phải chịu hậu quả bệnh tật do cái duyên mình tạo ra ác pháp cho người khác.

Người vợ hoặc chồng không làm đúng bổn phận trách nhiệm trong gia đình, thì gia đình sẽ xào xáo, bất an, không có hạnh phúc.

Người lãnh đạo không làm tròn nhiệm vụ lãnh đạo, thì cộng đồng sẽ nổi dậy chống đối nhà lãnh đạo đó.

Cho nên, dân gian đã đúc kết câu nói rất chí lý: Đừng nghĩ đến quyền hành, chức vụ, mà hãy nghĩ xem mình đã đủ tài, đủ đức đảm nhận chức vụ đó hay chưa. Người không đủ đức, đủ tài thì không bao giờ đảm nhận trách nhiệm đối với cộng đồng được. Nếu có thì chỉ làm khổ mình khổ người mà thôi.

˗ Người luôn đối xử công bằng với mọi người mọi vật, thì cuộc đời sẽ đối xử công bằng với người đó.

Ngược lại, người gieo nhân đối xử thiên vị, bất công đối với mọi người, mọi vật, thì phải gặp cảnh oan trái, bị đối xử bất công trở lại.

Người buôn bán gian lận, cân non, đong thiếu, khi nghiệp này thành tựu sẽ tái sanh làm người hoặc vật có các căn không đầy đủ.

˗ Người nói hay làm những hành động làm cho người khác bị bất an, thì người đó sẽ nhận lại những sự kiện làm cho tâm mình bất an.

˗ Người gieo nhân lập gia đình thì quả là những diễn biến xảy ra trong cuộc sống gia đình để người đó thọ nhận sự buồn vui, hạnh phúc hay khổ đau.

˗ Có người làm vua quan, có người làm giáo chủ hay chức sắc tôn giáo, có người làm ông nọ bà kia, có kẻ cùng đinh mạt hạng… tất cả đều là nhân quả xảy ra ở mặt trận pháp của người đó.

˗ Người phạm giới thì không thể nhiếp tâm an trú được.

Trong tu viện, có một sư cô cứ đến giờ lao tác là quét dọn rất sạch sẽ, nhưng đồng thời cũng làm chết chúng sanh rất nhiều. Trưởng lão nói với Nguyên Thanh rằng: Sư cô đó đến giờ tu sẽ không nhiếp tâm được, vì tạo nghiệp sát sanh, tức là phạm giới.

˗ Người gieo nhân dạy người khác những pháp tu ức chế tâm, thì bản thân sẽ hiểu sai pháp để tu hành rơi vào cảnh ức chế tâm.

Càng dạy nhiều người tu ức chế tâm, thì quả tu hành ức chế tâm càng nặng, khiến cho con đường tu của người đó gặp nhiều trở ngại.

˗ Trưởng lão Thích Thông Lạc có thuật lại một câu chuyện xảy ra trong thời Đức Phật: “Có năm vị Tỳ kheo giả làm người tu hành đắc đạo. Họ đến một vùng đất lạ, cất một cái bục cao, che phướn, che lọng, rồi một người lên ngồi nghiêm trang, mắt lim dim, còn bốn người kia đi vào làng kêu gọi mọi người đến xem có một vị tiên tu hành đắc đạo, nếu ai đến lễ lạy, cúng dường sẽ được nhiều phước báu. Cứ thế mà họ thay phiên nhau đi quảng cáo đồng bạn của mình để được cúng dường.

Kiếp sau đó, vào thời Đức Phật còn tại thế, có bốn người khiêng kiệu và một người bảo vệ kiệu của Hoàng Hậu đến nghe Phật thuyết pháp. Khi Hoàng Hậu đi nghe pháp thì cởi bỏ vòng vàng, nữ trang để trong kiệu. Năm người phụ trách kiệu xe thì nằm ngủ, ăn trộm đến ăn cắp tất cả nữ trang của Hoàng Hậu. Quân lính cho tra khảo đánh đập tàn nhẫn. Bà đến thỉnh ý Phật về nhân duyên gì mà có chuyện như thế?

Đức Phật đáp rằng năm ông đó kiếp trước là năm thầy tu giả mạo, còn bà là một tín nữ sùng đạo, hết lòng cung kính cúng dường họ. Bây giờ họ phải làm lính khiêng kiệu cho bà để đền nợ trước.

Nghe xong, Hoàng Hậu vô cùng kinh hãi, sợ mang tội với thầy nên bảo tha và không cho họ khiêng kiệu nữa. Nhưng họ khóc lóc, quỳ lạy, năn nỉ: “Xin lệnh bà rủ lòng thương xót, cho chúng con tiếp tục hầu hạ lệnh bà. Chúng con hứa từ nay sẽ cẩn thận không bao giờ dám ngủ quên như thế…”. Hoàng Hậu thỉnh ý Phật thì Đức Thế Tôn trả lời: “Nghiệp báo, họ trả nợ chưa dứt thì làm sao mà họ ra đi dễ dàng được?”.”

Người tạo nghiệp giả danh chứng đạo để lừa đảo người khác, thì có kết cục rất thê thảm như câu chuyện ở trên.

Trưởng lão Thích Thông Lạc đã dạy: “Luật nhân quả có đầy đủ quyền uy để hình phạt mọi người làm ác và ban phước cho mọi người làm thiện. Luật nhân quả khiến cho kẻ nào làm người khác khổ đau thì phải chịu lấy đau khổ; làm cho người khác gian nan vất vả thì phải chịu lấy vất vả gian nan; làm cho người khác nghèo cùng khốn khổ thì phải chịu lấy khốn khổ nghèo cùng; làm cho người khác cơm không đủ ăn, áo không đủ mặc hoặc hủy hoại thực phẩm thì phải chịu lấy cảnh cơ hàn, cơm không đủ ăn, áo không đủ mặc; làm cho kẻ khác đau khổ trong cảnh chia lìa tang tóc thì phải thọ lấy những cảnh tang tóc chia lìa; làm cho chúng sanh tử vong đoản mạng thì phải thọ lấy yểu tử, v.v.. Nếu là kẻ nào làm khổ mình khổ người đều phải nhận lấy nhân quả như nhau cả”.

Những gì xảy ra với bất kỳ con người nào đều không phải ngẫu nhiên, mà đều trong quy luật nhân quả. Nghĩa là những sự kiện xảy ra trên thân tâm và hoàn cảnh, hay nói theo danh từ Phật học là thân, thọ, tâm, pháp của họ đều là kết quả tương ưng với nghiệp nhân đã tạo.

Cho nên, thân, thọ, tâm, pháp là bốn sân khấu, nơi những vở tuồng nhân quả cứ nối tiếp nhau diễn xuất dưới bàn tay đạo diễn tài ba của nghiệp lực, để đưa con người vào sự khổ vui bất tận của cuộc đời. Cho đến lúc nhắm mắt xuôi tay, nghiệp lực tương ưng với thân mới, lại tiếp tục những vở tuồng nhân quả…

Con người do vô minh nên tạo nghiệp, thì chính nghiệp chi phối lại cuộc sống của con người.

Nghiệp là vị đạo diễn tài ba thao túng cuộc sống của chúng ta, còn diễn viên là những duyên nhân quả trong môi trường sống, trong đó có chính bản thân mình.

Ví dụ 1: Cũng là nghiệp sân, nhưng tương ưng với các đối tượng trong gia đình thì sẽ mắng vợ, chửi con; trong công sở thì hơn thua với đồng nghiệp; ngoài xã hội thì cãi nhau với người thiên hạ; vào chùa thì xích mích với bạn đồng tu; ngồi một mình thì chướng với bản thân…

Cho nên, nghiệp sân là đạo diễn, còn diễn viên có thể là người thân, có thể là đồng nghiệp, có thể là người lạ, có thể bạn đồng tu, có thể là bản thân mình, để phát khởi tâm sân, làm cho tâm phải chịu khổ đau.

Nếu không có nghiệp sân thì làm gì có chướng ngại, dù trong nhà hay ngoài xã hội, dù ngoài chợ hay trong chùa, có phải không?

Ví dụ 2: Cũng là nghiệp hơn thua, đố kỵ, ở ngoài xã hội thì thấy ai hơn mình là tìm cách nói xấu, hạ bệ; vào chùa thì tìm cách nói xấu huynh đệ, tự coi mình là nhất.

Nếu xả được nghiệp hơn thua, đố kỵ, thì ở đâu cũng thấy bình đẳng, không thấy mình hơn người, không thấy mình bằng người, không thấy mình thua người, có phải là hạnh phúc không?

Cho nên, con người dù có khác nhau về tuổi tác, giới tính, màu da, sắc tộc, dù có tu theo Đạo Phật hay không theo Đạo Phật, dù sống trong gia đình hay ở chùa, thì nhân quả luôn tác động trên bốn mặt trận: thân, thọ, tâm, pháp, đó là những sân khấu cuộc đời của mỗi con người.

Ai không nhận thức được điều đó thì chính họ sẽ bị nhân quả chi phối, trở thành diễn viên của nghiệp lực tham, sân, si, để phải chịu những sự khổ đau sanh, già, bệnh, chết.

Ai nhận thức được điều đó, thì họ phải từng bước tìm cách thoát ra khỏi sự chi phối của nhân quả, bằng cách ngăn ác, diệt ác, sanh thiện, tăng trưởng thiện pháp trên bốn chỗ thân, thọ, tâm, pháp, đó gọi là tu tập xả tâm bằng pháp môn Tứ Chánh Cần mà Đức Phật đã dạy.

Ví dụ 1: Khi người ta tới chửi mình, mình chánh niệm tĩnh giác và tư duy rằng: “Đây là nhân quả đang tác động trên mặt trận pháp tương ưng với nghiệp sân mà mình đã tạo. Vay thì trả, đó là sự công bằng. Vậy mình phải vui vẻ xả tâm, nếu mình thiếu tĩnh giác, cố chấp thân tâm này là thật có, để hơn thua, chống đối, thì mình tiếp tục tạo nghiệp ác để thân tâm mình sẽ phải chịu khổ đau. Với lại, người chửi mình là người đang bị quả khổ, vì bị quả khổ nên họ mới tạo nhân chửi mình được, chứ người hạnh phúc ai lại đi chửi bới người khác bao giờ? Vậy nên, mình phải thương yêu và tha thứ họ”. Suy tư như vậy rồi thì mình như lý tác ý: “Tâm phải bất động thanh thản, an lạc và vô sự”, thì tâm sẽ an ổn, giải thoát liền.

Đó là cách triển khai tri kiến xả tâm, gọi là triển khai tri kiến giải thoát.

Ví dụ 2: Khi đọc báo hoặc lên mạng xã hội, thấy nhiều chuyện trái ngang xảy ra trong cuộc đời, cũng như trong trú xứ tôn giáo, trong đó có giới tu hành theo giáo lý của Đức Thế Tôn. Người tu hành sao mà cũng nói xấu, hơn thua, đố kỵ với nhau, cũng như ngoài đời? Thì mình phải chánh tư duy: “Con người dù ở ngoài đời hay trong chùa, thì họ cũng đang sống trong bầu trời nhân quả, nên phải bị sự chi phối của luật nhân quả tương ưng với nghiệp mà họ đã tạo. Người tạo nghiệp nói xấu người khác, thì bị người khác nói xấu. Người sống không đúng Phạm hạnh, thì bị Phật tử coi thường. Người nói dối thì đánh mất lòng tin của người khác… Đó là sự công bằng của luật nhân quả tương ưng với nghiệp mà người đó đã tạo”. Suy tư xong thì mình như lý tác ý: “Tất cả đều là nhân quả tương ưng với nghiệp mà những người đó đã tạo, tại sao ta lại dính mắc để tâm dao động? Tâm phải bất động, thanh thản, an lạc và vô sự”.

Như chúng ta đã biết, các pháp trên thế gian này là do duyên hợp mà thành, tức là nhân quả, mà nhân quả do duyên hợp tạo thành thì cũng do duyên tan mà hoại diệt, nên nó phải vô thường, đã vô thường thì có gì là ta, là của ta đâu, mà tìm sự thật ở đó. Cho nên, chân lý cuộc đời không nằm ở các pháp thế gian, vì các pháp thế gian là những tấn tuồng của nhân quả, luôn luôn thay đổi theo các duyên, chứ không phải là thực thể có tính chất cố định, khai màn rồi hạ màn, sanh rồi diệt, cứ tiếp tục như vậy mãi mãi.

Chỉ có tâm bất động là tâm không nhân quả, tâm không nhân quả là tâm không có duyên hợp, tâm không có duyên hợp là tâm không có đặc tướng và đặc tính, tâm không có đặc tướng và đặc tính gọi là vô tướng tâm định, tức là tâm giải thoát. Do vậy, ngoài tâm mình mà đi tìm chân lý thì không bao giờ có được.

Người ta chửi mà mình không giận là chứng đạo, chứ đâu phải ở trong chùa hoặc mặc áo người tu là chứng đạo, vì chiếc áo không làm nên thầy tu. Quý vị hãy nhớ câu này thật kỹ để thấu hiểu bản chất của chân lý giải thoát.

Cho nên, hãy nhìn đời bằng đôi mắt nhân quả để thấy sự sanh diệt của các duyên theo nghiệp lực đã tạo, mà xả tâm dính mắc thì sự giải thoát ngay liền tại đó. Do tâm giải thoát không dính mắc các pháp thế gian, thì làm gì có hoang mang, dao động, làm gì có mất niềm tin, vì chân lý giải thoát nằm trong tâm của bản thân mình, chứ làm gì có chân lý ở bên ngoài. Chỉ có xả tâm chướng ngại thì sự thật hiện tiền trong tâm của mình, đó là chân lý.

2- CHÂN LÝ GIẢI THOÁT

Như trên chúng tôi đã nói: Ngoài tâm của mình mà đi tìm chân lý thì không bao giờ có được, mà phải tìm chân lý chỗ tâm không dính mắc các pháp thế gian, là tâm không nhân quả, là tâm vô tướng, là tâm bất động, thanh thản, an lạc và vô sự. Đó chính là chân lý giải thoát.

Bài pháp đầu tiên mà Đức Phật đã tuyên thuyết là Tứ Diệu Đế, bốn chân lý của con người, là con người thì ai cũng có bốn chân lý này. Chân lý của con người là trạng thái tâm, chứ ngoài trạng thái tâm thì không có chân lý. Nguyên Thanh xin tóm lược Tứ Diệu Đế để quý bạn đọc nhận ra những sự thật trong tâm của mình.

˗ Khổ đế: Đức Phật đã dạy: “Tham, sân, si là khổ”. Bất kỳ một người nào, dù nam hay nữ, già hay trẻ, da trắng hay da đen, người phương Đông hay phương Tây, người có tôn giáo hay không tôn giáo, người theo Đạo Phật hay không theo Đạo Phật, hễ tham, sân, si có mặt là khổ có mặt, đó là sự thật mà không ai có thể chối cãi được, nên gọi là chân lý.

˗ Tập đế: Đức Phật đã dạy: “Nguyên nhân của khổ đau là do lòng ham muốn”. Bất kỳ ai cũng có lòng ham muốn, vì ai cũng sinh ra từ nhân quả, mà nhân quả thì phải do duyên hợp nên tâm phải dính mắc các pháp thế gian, tức là có lòng ham muốn, do dính mắc các pháp thế gian nên mới có tham lam, thù hận, si mê, ganh ghét, đố kỵ, tị hiềm, hơn thua, ngã mạn, tức là có khổ. Cho nên, nguyên nhân của khổ đau là do lòng ham muốn, đó là một sự thật mà ai cũng có.

˗ Diệt đế: Đức Phật đã dạy: “Tâm không tham, sân, si là giải thoát, là Niết Bàn”, trạng thái này Trưởng lão Thích Thông Lạc đã dạy: “Tâm bất động, thanh thản, an lạc, vô sự”. Vậy chúng ta nhận ra trạng thái này như thế nào?

Khi chúng ta quan sát tâm mình sẽ thấy có lúc nó không khởi niệm tham muốn, giận hờn, lo lắng, sợ hãi, không suy tư, tính toán… thì đó là tâm đang thanh thản. Còn thân có lúc không đau nhức, tê mỏi, tức lói… đó là thân đang an lạc. Thân tâm không làm gì là vô sự. Cho nên, thanh thản, an lạc và vô sự là trạng thái tâm giải thoát mà ai cũng có. Nhưng trạng thái này dài ngắn tùy thuộc mỗi người. Có người được vài giây, có người được vài phút, có người thì hàng giờ. Đối với bậc tu chứng thì họ hằng sống với tâm thanh thản, an lạc và vô sự.

Tâm thanh thản, an lạc, vô sự là chân lý giải thoát mà ai cũng có thể giác ngộ ra được dù chưa tu hành. Nhưng trạng thái này thường bị mất đi do nghiệp tham, sân, si tác động. Vì vậy, Đức Phật mới dạy chúng ta Đạo Đế để hộ trì chân lý giải thoát.

˗ Đạo Đế: là một chương trình giáo dục gồm có 8 lớp, gọi là Bát Chánh Đạo, chia làm ba cấp Giới – Định – Tuệ, để làm cho tâm thanh tịnh. Vì tâm là tổng hợp của 6 cái biết mắt, tai, mũi, miệng, thân, ý, cho nên 8 lớp Bát Chánh Đạo: lớp Chánh kiến, lớp Chánh tư duy, lớp Chánh ngữ, lớp Chánh nghiệp, lớp Chánh mạng, lớp Chánh tinh tấn, lớp Chánh niệm, lớp Chánh Định, mục đích là làm cho 6 cái biết này thanh tịnh, 6 cái biết này thanh tịnh là tâm thanh tịnh, tâm thanh tịnh là giải thoát. Cho nên, Bát Chánh Đạo là chân lý tu tập để tâm được giải thoát.

Như vậy, Tứ Diệu Đế là bốn chân lý chỉ cho trạng thái tâm của con người, trong đó Diệt Đế là chân lý giải thoát không sanh, không diệt, không có nhân quả, là tâm bất động, thanh thản, an lạc và vô sự. Ngoài tâm thanh thản, an lạc và vô sự mà đi tìm sự thật thì không bao giờ có được, vì tất cả các pháp đều vô thường, sanh diệt theo quy luật hợp tan nhân quả.

Ví như khu vườn trống, chúng ta gieo một hạt cam, hợp đủ duyên thì phát triển thành cây cam, sau một thời gian xuất hiện bông trái, những trái cam rất nhỏ màu xanh lớn dần lên và ngả sang màu vàng, một số trái bị rụng do mưa gió… Những quả cam chín tồn tại một thời gian thì bị thu hoạch hoặc bị rụng do quá già. Sau nhiều mùa như vậy, thì đến ngày cây cam cằn cỗi và chết đi. Trong quá trình sống của nó, nhiều hạt cam đã được phát tán xuống đất và mọc lên những cây cam con, cây cam cháu…

Như vậy, nhân quả thảo mộc là do duyên hợp tạo thành, gặp duyên tan thì hoại diệt, chứ không phải là một thực thể cố định.

Tất cả các pháp trên thế gian này cũng vậy, dù là những vật nhỏ như nguyên tử hay to lớn như các hành tinh, dù là loài thực vật, động vật, hay con người đều là nhân quả sanh diệt, chứ không phải là thực thể cố định. Vì thế, ngoài tâm bất động của con người mà đi tìm sự thật, chân lý giải thoát, thì không bao giờ có được.

Do đó, chúng ta hãy quay lại nơi chính tâm mình để tìm sự thật, hay nói chính xác hơn là hộ trì chân lý giải thoát, vì trạng thái tâm thanh thản, an lạc, vô sự này đã có sẵn trong tâm mọi người. Chỉ vì chạy theo sự tác động, chi phối của nghiệp lực tham, sân, si mà chúng ta không bảo vệ được trạng thái bất động đó, nên đành phải chịu sự khổ đau.

3- CHỖ NƯƠNG TỰA TU HÀNH

Trưởng lão Thích Thông Lạc dạy: “Hãy tự mình thắp lên ngọn đuốc mà đi, tự mình lấy mình làm chỗ nương tựa, không nương vào bất cứ một ai. Chỉ nương tựa vào chánh pháp của Phật”.

Đúng vậy, vì chân lý giải thoát nằm trong tâm của mình, cho nên phải trở về nương tựa vào chính mình, nương tựa vào chánh pháp của Phật để giữ gìn và bảo vệ chân lý bất động, thanh thản, an lạc và vô sự trong tâm của mình, chứ không thể nương tựa vào bất cứ một ai.

Đức Phật cũng không thể nào cứu khổ cho chúng ta được, vì Ngài hiểu rõ luật nhân quả, ai làm ác thì phải gặt lấy những điều khổ đau; ai làm lành thì hưởng phước báu, không ai có thể giúp ai được.

Con người là động vật thông minh, nếu trí thông minh đó không được trang bị tri kiến đạo đức nhân quả, mà được sử dụng qua góc lệch của lòng ham muốn, thì trở nên vô cùng xảo quyệt. Cho nên, những thánh tích của Đức Phật ngày xưa đã bị những nhà tôn giáo Bà La Môn biến thành khu du lịch, họ thường vẽ vời đây là thánh địa, đây là tâm linh, đây là phước đức, để chiêu dụ tín đồ hành hương về đất Phật, làm hao tài tốn của không biết bao nhiêu mà kể. Trong khi bản chất của Phật giáo là đạo đức nhân bản – nhân quả, sống không làm khổ mình khổ người, thì họ đã chôn vùi không thương tiếc.

Đức Phật chứng đạo dưới cội cây bồ đề. Ngài cũng không bao giờ dạy đệ tử phải ngồi đúng vào cội cây bồ đề đó mới chứng được đạo quả, mà dạy mọi người xả tâm ly dục ly ác pháp, dạy xả sạch tham, sân, si, dạy quét sạch chướng ngại pháp trong tâm của mình, thì tâm sẽ bất động, thanh thản, an lạc, vô sự, đó là Niết Bàn. Còn địa điểm chứng đạo của mỗi người là khác nhau tùy theo duyên nhân quả. Có người chứng đạo trong tịnh xá, có người chứng đạo ở trong rừng như Ngài Mục Kiền Liên, có người chứng đạo trên giường bệnh như Vua Tịnh Phạn…

Trưởng lão Thích Thông Lạc chứng đạo tại quê hương Việt Nam, chứ Ngài chưa từng đặt chân tới Ấn Độ, quê hương của Đức Phật, mà vẫn chứng đạo như thường, vì Ngài đã tu hành đúng theo giáo pháp mà Đức Phật đã dạy, xả tâm ly dục ly ác pháp triệt để là chứng đạo.

Cô Liễu Kim là một cư sĩ thời Trưởng lão Thích Thông Lạc, sống ở Hà Nội, khi lâm chung nhờ tín lực mà giữ gìn được tâm bất động trước cận tử nghiệp, nên cũng không còn tương ưng tái sanh, chứ cô đâu có tới chỗ “thánh địa” nào đâu?

Thầy Thông Lạc đã viết những lời đầy lòng thương yêu tha thiết gửi các cụ, các bác lớn tuổi: “Tâm thanh thản, an lạc và vô sự là nơi các cụ, các bác về khi bỏ thân tứ đại này. Nơi đó mãi mãi không còn tái sinh luân hồi nữa, nơi đó không còn khổ đau nữa các cụ, các bác ạ! Nơi đó là nơi chư Phật ba đời đều an trú.

Trước kia trong những ngày từ Nam ra Bắc Thầy gặp các cụ, các bác trong chiếc thân tứ đại, rồi ngày mai sẽ gặp các bác, các cụ trong trạng thái thanh thản, an lạc và vô sự. Các cụ, các bác có biết không? Nếu các cụ, các bác giữ gìn được trạng thái ấy, bằng không thì Thầy trò khó gặp nhau nữa các cụ, các bác ạ!”. Như vậy, Thầy hẹn các cụ, các bác ở chỗ tâm thanh thản, an lạc, vô sự, chứ Thầy đâu có hẹn các cụ, các bác tại ngôi chùa nào?

Vậy mà một số nhà tôn giáo xảo quyệt họ rêu rao rằng, phải về chỗ thánh địa này kia cho có phước, mới gọi là tôn kính Phật. Tôn kính Phật sao lại đi nói xấu, chỉ trích người, hơn thua với thiên hạ? Không biết xấu hổ hay sao?

Cho nên, thánh địa của Phật giáo nằm trong tâm của mọi người, đó chính là tâm bất động, thanh thản, an lạc, vô sự mà Đức Phật đã xác quyết và Trưởng lão Thích Thông Lạc đã khai ngộ cho chúng ta. Ngoài tâm bất động của mình mà đi tìm chân lý giải thoát thì không bao giờ có.

Người có chánh kiến thì hãy tìm cách giữ gìn và hộ trì chân lý giải thoát trong tâm của mình, còn người không có chánh kiến thì rong ruổi theo các pháp thế gian để rồi tâm phải hoang mang, dao động.

Đạo Phật là đạo tự lực, chứ không phải là đạo tha lực, cho nên Trưởng lão Thích Thông Lạc, dù là người tu chứng đạo, cũng luôn nhắc nhở chúng ta: “Hãy tự mình thắp lên ngọn đuốc mà đi, tự mình lấy mình làm chỗ nương tựa, không nương vào bất cứ một ai. Chỉ nương tựa vào chánh pháp của Phật”, thế mà có nhiều nhà tôn giáo muốn lấy mình làm trung tâm vũ trụ quy tụ tín đồ, thì thử hỏi điều này có giải thoát được không? Mong quý vị cứ bình tâm suy nghĩ!

Con người có bộ óc thông minh có thể phân biệt thiện ác để tiến tu giải thoát, nhưng nếu bị tham vọng chi phối, thì sẽ trở nên xảo quyệt vô cùng, vì thế mà họ thường để lộ sơ hở cho những người có tri kiến thấu rõ.

Nhiều người vì tham vọng của mình mà nương nhờ Thần, Phật để nâng cao vị thế, thậm chí có kẻ còn cuồng vọng muốn thâu thiên hoán vũ, xoay chuyển càn khôn, thật là điên đảo, không hiểu luật nhân quả. Vì Trưởng lão Thích Thông Lạc đã dạy:

“Ở đây quý thầy phải hiểu luật nhân quả không thiên vị một ai, nó cũng không sợ một ai, dù kẻ đó là Đức Phật, là đấng Chúa Trời, là Đức Thế Tôn, là bậc Thánh Hiền, là Thượng Đế, là Ngọc Hoàng, ma quỷ; dù kẻ đó là các vua chúa đầy đủ uy quyền nó cũng chẳng nể; dù kẻ đó là kẻ nịnh bợ, a dua, ton hót nó cũng chẳng tha; dù kẻ đó là người giàu sang tột đỉnh trong thế gian này nó cũng chẳng vị tình nể mặt; dù kẻ đó nghèo hèn mạt tận, cùng đinh khốn khổ nó cũng không vì thế mà tha thứ. Từ những bậc tạo hóa vạn năng tối thượng chí đến kẻ cùng đinh khốn khổ, luật nhân quả luôn luôn lúc nào cũng bình đẳng đối xử như nhau”.

Cho nên, muốn được giải thoát thì hãy sống thuận đạo lý nhân quả, không làm khổ mình khổ người, còn sống nghịch đạo lý nhân quả, thường làm khổ mình khổ người mà muốn giải thoát, muốn làm trung tâm của vũ trụ thì chỉ là điên đảo, vì luật nhân quả không cho phép điều đó xảy ra.

Đức Phật thường dạy: “Ta chỉ độ người hữu duyên, chứ không thể độ người vô duyên được”, vì Ngài đã thấu rõ luật nhân quả, nên tình thương của Ngài cũng chỉ thực hiện được trong lộ trình nhân quả, đối với những chúng sanh có phước duyên với Ngài.

Thầy Thông Lạc đã từng nói với Nguyên Thanh: Những bậc tu chứng như Đức Phật, các bậc Thánh Tăng hay Thầy, cũng chỉ giúp được một số chúng sanh có duyên với mình, chứ không thể xen vào nhân quả của người khác nếu họ không có đủ duyên.

Vì vậy, người nào biết cách triển khai tri kiến để thấu triệt đạo lý nhân quả, thì chân lý giải thoát càng hiện bày trong tâm người đó, khi nào hiểu rõ nhân quả như thật là chứng đạo.

Đạo Phật là đạo tự lực, nên người tu theo Đạo Phật phải là người có ý chí dũng mãnh, kiên cường, gan dạ, phải là người biết chiến thắng chính mình, luôn luôn tự tin vào chính bản thân mình, nhưng không bao giờ làm khổ người khác. Còn những hạng nịnh trên nạt dưới, vào luồn ra cúi để đổi lấy miếng cơm manh áo, cầu chút danh phận nhỏ nhoi chốn thiền môn, thì không xứng là những bậc trượng phu Thích tử, con cháu Đức Phật Thích Ca.

Có lần trong văn phòng, Nguyên Thanh đã hỏi Thầy Thông Lạc:

˗ Nếu sau này Thầy mất đi, thì chúng con phải nương tựa vào đâu để tu hành?

Thầy trả lời:

˗ Con không thấy Thầy ngày đêm viết sách cho các con đó sao, nếu Thầy không còn thì các con hãy nương tựa vào sách vở, lời dạy của Thầy mà tu hành.

Thầy nói thêm:

˗ Thầy phải ra công viết sách, là vì Thầy thương những người tu hành. Nếu không có sách vở, họ phải tự mò mẫm thì rất tội nghiệp và rất dễ lạc vào tà pháp.

Nguyên Thanh hỏi thêm:

˗ Vậy có khi nào ai đó làm lệch pháp Thầy như thời Đức Phật không?

Thầy trả lời:

˗ Con yên tâm! Chính những cuốn sách và lời dạy của Thầy là căn cứ để Phật tử bảo vệ pháp Thầy, cho nên ai làm sai thì Phật tử đều phát hiện ra, vì Thầy đã liệt kê ra hết rồi, rất đầy đủ. Những người sau này họ rất thông minh và có tri kiến lắm con.

Thầy cũng như Đức Phật, để lại giới luật và giáo pháp cho các con và những người sau tu hành. Sau này các con hay người khác tu chứng họ cũng sẽ làm như Thầy, như Đức Phật, chứ không có khác.

Thời Đức Phật có nhiều vị tu chứng quả A La Hán, nhưng Ngài không di chúc cho bất kỳ một ai, mà Ngài chỉ dạy: “Các con hãy lấy giới luật và giáo pháp Ta làm Thầy, làm hòn đảo, làm chỗ nương tựa vững chắc tu hành”.

Thầy Thông Lạc dạy: “Giới luật là vị thầy đầu tiên và cũng là vị thầy cuối cùng mà Đức Phật di chúc”.

Và Thầy dạy thêm: “Giả dụ có sự truyền thừa từ Đức Phật đến các tổ sau này thì chắc chắn con đường Đạo Phật đã mất gốc từ lâu. Không có truyền thừa mà các tổ còn bịa ra được, còn thay đổi giáo lý của Phật, huống là có sự truyền thừa thì sự thay đổi ấy phải gấp trăm ngàn lần, thì Phật giáo hiện giờ trở thành ma giáo”. Xin quý vị hãy lắng lòng lại, suy tư câu này thật cẩn thận, kỹ lưỡng, để thấm nhuần được lời dạy vô cùng sâu sắc này.

Đức Phật đã dạy: “Lấy giới luật và giáo pháp làm thầy”, chúng ta cần phải nương theo giáo pháp của Ngài triển khai tri kiến giải thoát để sống đúng đạo đức nhân bản nhân quả, không làm khổ mình khổ người, tức là sống đúng giới luật, mà sống đúng giới luật là giải thoát.

Trưởng lão Thích Thông Lạc dạy: “Nếu các con được thân cận với một bậc thiện hữu tri thức (bậc tu chứng đạo), thì bậc ấy có thể dạy tắt theo đặc tướng riêng của các con. Còn nếu các con không được thân cận bậc thiện hữu tri thức mà tự tu, thì phải đi đúng lộ trình Bát Chánh Đạo”. Vì vậy, những người hậu học, không có duyên được Thầy Thông Lạc hướng dẫn, thì hãy nương theo lời dạy của Thầy, tự mình thực hiện đúng lộ trình Bát Chánh Đạo, thì lo gì không có sự giải thoát.

Đức Phật dạy: “Giới luật còn là Đạo Phật còn”, có nghĩa là người nào giữ đúng giới luật thì Đạo Phật còn trong tâm người đó, vì giữ đúng giới luật là sống đúng đạo đức không làm khổ mình khổ người, không làm khổ mình khổ người là giải thoát, giải thoát là đạt được mục đích tu hành của Đạo Phật, tức là Đạo Phật còn trong tâm người đó.

Giáo pháp của Đức Phật là thiện pháp, cho nên chúng ta chỉ cần biết cách triển khai tri kiến để phân biệt cho thật rõ: pháp nào là thiện, pháp nào là ác, để không làm các pháp ác, chỉ làm các pháp thiện, người biết sống như vậy là chứng đạo.

Giáo pháp của Đức Phật là chân lý của con người, nên nó có những tiêu chuẩn rất rõ ràng mà ai cũng có thể nhận ra được trong tâm của mình. Mỗi trạng thái thiện pháp trong tâm sẽ có sự an ổn ở mức độ thiện pháp đó.

˗ Người sống đúng 5 giới, thì có sự an ổn của 5 giới thiện pháp, nhưng ý thức dục vẫn còn.

˗ Người sống đúng 10 điều lành, thì có sự an ổn của 10 điều lành, nhưng tưởng thức dục vẫn còn.

˗ Người giữ tâm bất động trước mọi ác pháp và cảm thọ, thì tâm được giải thoát, vì ý thức dục và tưởng thức dục không còn, tức là đã ly dục ly ác pháp hoàn toàn.

Với những người còn đang giao tiếp thì hãy sống đúng năm giới, nhìn đời bằng đôi mắt nhân quả, thỉnh thoảng thọ Bát Quan Trai, thì cuộc sống sẽ được bình an.

Trưởng lão Thích Thông Lạc đã vạch rõ đường lối tu hành từ thấp đến cao, chỉ rõ những pháp tu, tiêu chuẩn đạo đức và trạng thái tu hành giúp cho mọi người dễ nhận ra để đi đúng lộ trình giải thoát, mà không sợ bị lầm lạc.

Ví dụ, một người chưa sung mãn giới luật, tức là chưa ly dục ly ác pháp hoàn toàn mà nói chuyện thiền định, thì điều đó không bao giờ có được.

Người còn nói xấu, phỉ báng, hơn thua với mọi người mà nói rằng chứng đạo, thì cũng như người đang ở trong bùn lầy mà nói mình trong sạch, lý ấy không thể được.

Tu hành là phải biết phản tỉnh trên thân hành, khẩu hành, ý hành của mình để ngăn ác diệt ác pháp làm cho tâm thanh tịnh, chứ không phải phản tỉnh trên thân hành, khẩu hành, ý hành của người khác để tâm phải chịu sự khổ đau.

Tóm lại, nếu thấu rõ đời người là những vở tuồng nhân quả diễn ra trên bốn sân khấu: thân, thọ, tâm, pháp, dưới bàn tay đạo diễn của nghiệp lực, chúng ta cần phải sống thuận đạo lý nhân quả, không làm khổ mình khổ người, thì chân lý giải thoát sẽ hiện tiền trong tâm, giúp ta sống bình an trong nghiệp quả của mình.

TM. Ban Biên Tập

Sc. Nguyên Thanh

Đọc thêm

Leave a Comment

  • Tri Kiến Giải Thoát

    2 tuần trước

    "Tóm lại, nếu thấu rõ đời người là những vở tuồng nhân quả diễn ra trên bốn sân khấu: thân, thọ, tâm, pháp, dưới bàn tay đạo diễn của nghiệp lực, chúng ta cần phải sống thuận đạo lý nhân quả, không làm khổ mình khổ người, thì chân lý giải thoát sẽ hiện tiền trong tâm, giúp ta sống bình an trong nghiệp quả của mình." (Sc. Nguyên Thanh)

    • Bỏ chọn
    • Bỏ chọn
    6

    Các tương tác cảm xúc

    Tất cả
    6
    Bạn
    • 1 người khác thấy bổ ích
    • 1 người khác thấy cảm hứng
    • 1 người khác thấy xúc động
    Phản hồi
    Báo bình luận vi phạm

    @Tri Kiến Giải Thoát

  • Tri Kiến Giải Thoát

    2 tuần trước

    "Đức Phật dạy: “Giới luật còn là Đạo Phật còn”, có nghĩa là người nào giữ đúng giới luật thì Đạo Phật còn trong tâm người đó, vì giữ đúng giới luật là sống đúng đạo đức không làm khổ mình khổ người, không làm khổ mình khổ người là giải thoát, giải thoát là đạt được mục đích tu hành của Đạo Phật, tức là Đạo Phật còn trong tâm người đó." (Sc. Nguyên Thanh)

    • Bỏ chọn
    • Bỏ chọn
    6

    Các tương tác cảm xúc

    Tất cả
    6
    Bạn
    • 1 người khác thấy bổ ích
    • 1 người khác thấy cảm hứng
    • 1 người khác thấy xúc động
    Phản hồi
    Báo bình luận vi phạm

    @Tri Kiến Giải Thoát

  • Tri Kiến Giải Thoát

    2 tuần trước

    "Đạo Phật là đạo tự lực, nên người tu theo Đạo Phật phải là người có ý chí dũng mãnh, kiên cường, gan dạ, phải là người biết chiến thắng chính mình, luôn luôn tự tin vào chính bản thân mình, nhưng không bao giờ làm khổ người khác. Còn những hạng nịnh trên nạt dưới, vào luồn ra cúi để đổi lấy miếng cơm manh áo, cầu chút danh phận nhỏ nhoi chốn thiền môn, thì không xứng là những bậc trượng phu Thích tử, con cháu Đức Phật Thích Ca." (Sc. Nguyên Thanh)

    • Bỏ chọn
    • Bỏ chọn
    6

    Các tương tác cảm xúc

    Tất cả
    6
    Bạn
    • 1 người khác thấy bổ ích
    • 1 người khác thấy cảm hứng
    • 1 người khác thấy xúc động
    Phản hồi
    Báo bình luận vi phạm

    @Tri Kiến Giải Thoát

  • Tri Kiến Giải Thoát

    2 tuần trước

    "Cho nên, muốn được giải thoát thì hãy sống thuận đạo lý nhân quả, không làm khổ mình khổ người, còn sống nghịch đạo lý nhân quả, thường làm khổ mình khổ người mà muốn giải thoát, muốn làm trung tâm của vũ trụ thì chỉ là điên đảo, vì luật nhân quả không cho phép điều đó xảy ra." (Sc. Nguyên Thanh)

    • Bỏ chọn
    • Bỏ chọn
    6

    Các tương tác cảm xúc

    Tất cả
    6
    Bạn
    • 1 người khác thấy bổ ích
    • 1 người khác thấy cảm hứng
    • 1 người khác thấy xúc động
    Phản hồi
    Báo bình luận vi phạm

    @Tri Kiến Giải Thoát

  • Tri Kiến Giải Thoát

    2 tuần trước

    "Cho nên, thánh địa của Phật giáo nằm trong tâm của mọi người, đó chính là tâm bất động, thanh thản, an lạc, vô sự mà Đức Phật đã xác quyết và Trưởng lão Thích Thông Lạc đã khai ngộ cho chúng ta. Ngoài tâm bất động của mình mà đi tìm chân lý giải thoát thì không bao giờ có.
    Người có chánh kiến thì hãy tìm cách giữ gìn và hộ trì chân lý giải thoát trong tâm của mình, còn người không có chánh kiến thì rong ruổi theo các pháp thế gian để rồi tâm phải hoang mang, dao động." (Sc. Nguyên Thanh)

    • Bỏ chọn
    • Bỏ chọn
    6

    Các tương tác cảm xúc

    Tất cả
    6
    Bạn
    • 1 người khác thấy bổ ích
    • 1 người khác thấy cảm hứng
    • 1 người khác thấy xúc động
    Phản hồi
    Báo bình luận vi phạm

    @Tri Kiến Giải Thoát

  • Tri Kiến Giải Thoát

    2 tuần trước

    "Đúng vậy, vì chân lý giải thoát nằm trong tâm của mình, cho nên phải trở về nương tựa vào chính mình, nương tựa vào chánh pháp của Phật để giữ gìn và bảo vệ chân lý bất động, thanh thản, an lạc và vô sự trong tâm của mình, chứ không thể nương tựa vào bất cứ một ai." (Sc. Nguyên Thanh)

    • Bỏ chọn
    • Bỏ chọn
    6

    Các tương tác cảm xúc

    Tất cả
    6
    Bạn
    • 1 người khác thấy bổ ích
    • 1 người khác thấy cảm hứng
    • 1 người khác thấy xúc động
    Phản hồi
    Báo bình luận vi phạm

    @Tri Kiến Giải Thoát

  • Tri Kiến Giải Thoát

    2 tuần trước

    "Do đó, chúng ta hãy quay lại nơi chính tâm mình để tìm sự thật, hay nói chính xác hơn là hộ trì chân lý giải thoát, vì trạng thái tâm thanh thản, an lạc, vô sự này đã có sẵn trong tâm mọi người. Chỉ vì chạy theo sự tác động, chi phối của nghiệp lực tham, sân, si mà chúng ta không bảo vệ được trạng thái bất động đó, nên đành phải chịu sự khổ đau." (Sc. Nguyên Thanh)

    • Bỏ chọn
    • Bỏ chọn
    6

    Các tương tác cảm xúc

    Tất cả
    6
    Bạn
    • 1 người khác thấy bổ ích
    • 1 người khác thấy cảm hứng
    • 1 người khác thấy xúc động
    Phản hồi
    Báo bình luận vi phạm

    @Tri Kiến Giải Thoát

  • Tri Kiến Giải Thoát

    2 tuần trước

    "Cho nên, hãy nhìn đời bằng đôi mắt nhân quả để thấy sự sanh diệt của các duyên theo nghiệp lực đã tạo, mà xả tâm dính mắc thì sự giải thoát ngay liền tại đó. Do tâm giải thoát không dính mắc các pháp thế gian, thì làm gì có hoang mang, dao động, làm gì có mất niềm tin, vì chân lý giải thoát nằm trong tâm của bản thân mình, chứ làm gì có chân lý ở bên ngoài. Chỉ có xả tâm chướng ngại, thì sự thật hiện tiền trong tâm của mình, đó là chân lý." (Sc. Nguyên Thanh)

    • Bỏ chọn
    • Bỏ chọn
    6

    Các tương tác cảm xúc

    Tất cả
    6
    Bạn
    • 1 người khác thấy bổ ích
    • 1 người khác thấy cảm hứng
    • 1 người khác thấy xúc động
    Phản hồi
    Báo bình luận vi phạm

    @Tri Kiến Giải Thoát

  • Tri Kiến Giải Thoát

    2 tuần trước

    "Chỉ có tâm bất động là tâm không nhân quả, tâm không nhân quả là tâm không có duyên hợp, tâm không có duyên hợp là tâm không có đặc tướng và đặc tính, tâm không có đặc tướng và đặc tính gọi là vô tướng tâm định, tức là tâm giải thoát. Do vậy, ngoài tâm mình mà đi tìm chân lý thì không bao giờ có được." (Sc. Nguyên Thanh)

    • Bỏ chọn
    • Bỏ chọn
    6

    Các tương tác cảm xúc

    Tất cả
    6
    Bạn
    • 1 người khác thấy bổ ích
    • 1 người khác thấy cảm hứng
    • 1 người khác thấy xúc động
    Phản hồi
    Báo bình luận vi phạm

    @Tri Kiến Giải Thoát

  • Tri Kiến Giải Thoát

    2 tuần trước

    "Như chúng ta đã biết, các pháp trên thế gian này là do duyên hợp mà thành, tức là nhân quả, mà nhân quả do duyên hợp tạo thành thì cũng do duyên tan mà hoại diệt, nên nó phải vô thường, đã vô thường thì có gì là ta, là của ta đâu, mà tìm sự thật ở đó. Cho nên, chân lý cuộc đời không nằm ở các pháp thế gian, vì các pháp thế gian là những tấn tuồng của nhân quả, luôn luôn thay đổi theo các duyên, chứ không phải là thực thể có tính chất cố định, khai màn rồi hạ màn, sanh rồi diệt, cứ tiếp tục như vậy mãi mãi." (Sc. Nguyên Thanh)

    • Bỏ chọn
    • Bỏ chọn
    6

    Các tương tác cảm xúc

    Tất cả
    6
    Bạn
    • 1 người khác thấy bổ ích
    • 1 người khác thấy cảm hứng
    • 1 người khác thấy xúc động
    Phản hồi
    Báo bình luận vi phạm

    @Tri Kiến Giải Thoát

  • Tri Kiến Giải Thoát

    2 tuần trước

    "Cho nên, thân, thọ, tâm, pháp là bốn sân khấu, nơi những vở tuồng nhân quả cứ nối tiếp nhau diễn xuất dưới bàn tay đạo diễn tài ba của nghiệp lực, để đưa con người vào sự khổ vui bất tận của cuộc đời. Cho đến lúc nhắm mắt xuôi tay, nghiệp lực tương ưng với thân mới, lại tiếp tục những vở tuồng nhân quả…" (Sc. Nguyên Thanh)

    • Bỏ chọn
    • Bỏ chọn
    6

    Các tương tác cảm xúc

    Tất cả
    6
    Bạn
    • 1 người khác thấy bổ ích
    • 1 người khác thấy cảm hứng
    • 1 người khác thấy xúc động
    Phản hồi
    Báo bình luận vi phạm

    @Tri Kiến Giải Thoát

  • Tri Kiến Giải Thoát

    2 tuần trước

    "Đức Phật dạy: “Nghiệp tương ưng tái sanh luân hồi”, nghĩa là con người từ nghiệp sanh ra. Nghiệp tương ưng với các duyên hợp như cha, mẹ, thời tiết, khí hậu, thức ăn… để hình thành nên thân người, và liên tục hợp với các duyên tứ đại để phát triển từ bào thai nhỏ trở thành đứa bé, rồi lớn lên thành thanh niên và cuối cùng già đi rồi chết, đó là chu kỳ sống điển hình của một con người bình thường. Đây là nghiệp quả trên thân của mỗi người từ sanh đến diệt, luôn thay đổi theo thời gian." (Sc. Nguyên Thanh)

    • Bỏ chọn
    • Bỏ chọn
    6

    Các tương tác cảm xúc

    Tất cả
    6
    Bạn
    • 1 người khác thấy bổ ích
    • 1 người khác thấy cảm hứng
    • 1 người khác thấy xúc động
    Phản hồi
    Báo bình luận vi phạm

    @Tri Kiến Giải Thoát

  • Tri Kiến Giải Thoát

    2 tuần trước

    "Vậy, đường đi nhân quả con người như thế nào, con người gieo nhân từ đâu và nhận quả ở chỗ nào?
    Nhân là hành động mà con người tác động vào môi trường, còn quả là kết quả mà con người nhận được từ môi trường tác động trở lại. Cụ thể:
    Nhân là từ trường của hành động thân, khẩu, ý do vô minh điều khiển, gọi là nghiệp nhân.
    Quả là những diễn biến xảy ra trên bốn chỗ: thân, thọ, tâm, pháp của con người tương ưng với nghiệp nhân đã tạo. Mọi sự kiện xảy ra đối với con người đều không ngoài bốn chỗ: thân, thọ, tâm, pháp. Nó là bốn chỗ mà nghiệp tương ưng với các duyên tác động vào đời sống của một con người, ngoài bốn chỗ này thì không phải là đời sống của con người." (Sc. Nguyên Thanh)

    • Bỏ chọn
    • Bỏ chọn
    6

    Các tương tác cảm xúc

    Tất cả
    6
    Bạn
    • 1 người khác thấy bổ ích
    • 1 người khác thấy cảm hứng
    • 1 người khác thấy xúc động
    Phản hồi
    Báo bình luận vi phạm

    @Tri Kiến Giải Thoát

  • Tri Kiến Giải Thoát

    2 tuần trước

    "Nhân quả là duyên hợp, cho nên nhân quả luôn công bằng và tuyệt đối công bằng.
    Nếu hiểu rõ sự công bằng của luật nhân quả thì tâm chúng ta không bao giờ hoang mang, dao động. Còn nếu tâm bị hoang mang, dao động có nghĩa là chúng ta chưa hiểu rõ luật nhân quả." (Sc. Nguyên Thanh)

    • Bỏ chọn
    • Bỏ chọn
    6

    Các tương tác cảm xúc

    Tất cả
    6
    Bạn
    • 1 người khác thấy bổ ích
    • 1 người khác thấy cảm hứng
    • 1 người khác thấy xúc động
    Phản hồi
    Báo bình luận vi phạm

    @Tri Kiến Giải Thoát

  • Tri Kiến Giải Thoát

    2 tuần trước

    "Trên thế gian này không có sự vật hiện tượng nào xảy ra một cách ngẫu nhiên, mà đều có nguyên do. Nghĩa là, có nguyên nhân thì mới có kết quả. Vì vậy, Đức Phật dạy: “Con người sinh ra từ nhân quả, sống trong nhân quả, chết trở về với nhân quả”, hay nói một cách khác: “Con người sinh ra từ môi trường sống, sống trong môi trường sống, chết lại trở về với môi trường sống”. Điều này có nghĩa là tất cả mọi việc trên đời này đều không ngoài nhân quả, mà nhân quả là quy luật duyên hợp giữa các duyên trong môi trường sống này." (Sc. Nguyên Thanh)

    • Bỏ chọn
    • Bỏ chọn
    6

    Các tương tác cảm xúc

    Tất cả
    6
    Bạn
    • 1 người khác thấy bổ ích
    • 1 người khác thấy cảm hứng
    • 1 người khác thấy xúc động
    Phản hồi
    Báo bình luận vi phạm

    @Tri Kiến Giải Thoát

    Xem phản hồi của và những người khác

    • Thiện Tâm

      1 tuần trước

      Con kính tri ân Sư Cô Nguyên Thanh, Thầy Phan Tuấn Phúc cùng Ban Biên Tập đã chia sẽ cho chúng con bài triển khai tri kiến vô cùng sâu sắc, quý báu và hữu ích ạ! 🙏❤️

      • Bỏ chọn
      • Bỏ chọn
      6

      Các tương tác cảm xúc

      Tất cả
      6
      Bạn
      • 1 người khác thấy bổ ích
      • 1 người khác thấy cảm hứng
      • 1 người khác thấy xúc động
      Phản hồi
      Báo bình luận vi phạm

      Phản hồi tới Tri Kiến Giải Thoát

      @Thiện Tâm

Đọc thêm
Tư liệu tham khảo
Xem thêm
Chia sẻ
Ngày đăng: 4 Tháng Hai, 2025, 12:17
Bài viết liên quan
Chuyển đổi nhân quả gia đình

Nguyên Thanh

Tóm lại, Đạo Phật dạy đời là khổ để vượt lên cái khổ của cuộc đời, để chuyển hóa cuộc đời vô đạo đức thành đời sống có đạo đức, biến cảnh sống bất an thành hoàn cảnh thuận lợi, chứ không phải là để trốn tránh cái khổ. Muốn vậy, chúng ta phải sống đúng 5 tiêu chuẩn đạo đức làm người, xả tâm trước các đối tượng và vui vẻ làm tròn bổn phận nhân quả của mình, thì sẽ được bình an trong nhân quả.

Dục là gì?

Nguyên Thanh

Tóm lại, khi sáu căn tiếp xúc với sáu trần thì sinh ra các cảm thọ, các cảm thọ sinh ra dục, từ dục con người mới sinh ra dính mắc các pháp trần, do dính mắc các pháp trần nên mới sinh ra tâm tham, sân, si, tức là dục tham, dục sân, dục si để tạo nghiệp tham, sân, si khiến con người phải chịu nhiều ưu bi, sầu khổ, bệnh, chết. Cho nên, phải tu tập theo lộ trình Bát Chánh Đạo để ly dục ly ác pháp, tức là giữ tâm bất động trước ác pháp và cảm thọ, thì tâm sẽ được giải thoát khổ đau.

Hạnh nghiệp nhân quả

Nguyên Thanh

Tóm lại, muốn thấy được gốc rễ cần phải nhìn xuyên qua cành lá, muốn hiểu được bản chất của vấn đề thì phải nhìn xuyên qua các hiện tượng. Con người trên thế gian này hạnh phúc hay khổ đau, bệnh tật hay khỏe mạnh đều do hạnh nghiệp nhân quả mà ra. Vì vậy, hãy tự mình thắp lên ngọn đuốc đạo đức nhân quả, sống không làm khổ mình khổ người, mới có thể chuyển đổi được nghiệp khổ thành cuộc sống hạnh phúc, an vui, giải thoát.

Pháp tu cho người già

Nguyên Thanh

Tóm lại, pháp tu của người già là ngồi chơi xả tâm, tức là tu Tứ Niệm Xứ trên Tứ Niệm Xứ. Khi có chướng ngại nào xảy ra trên bốn chỗ thân, thọ, tâm, pháp, thì dùng pháp Như Lý Tác Ý đuổi đi cho thật sạch để bảo vệ chân lý thanh thản, an lạc, vô sự. Cứ siêng năng tu tập đến khi tâm đủ nội lực bất động trước cận tử nghiệp thì không còn tái sanh luân hồi.

Chánh niệm tĩnh giác để xả tâm

Nguyên Thanh

Tóm lại, hàng ngày trong mọi công việc chúng ta cần nương theo thân hành để tập Chánh Niệm Tĩnh Giác, nhờ sức tĩnh giác này mà tâm bình tĩnh dùng tri kiến đạo đức nhân bản – nhân quả điều khiển hành động thân, khẩu, ý không làm khổ mình khổ người, đó chính là “sống là tu, tu là sống” để đem lại sự hạnh phúc, an vui cho mình và mọi người.

Tầm tứ

Nguyên Thanh

Tóm lại, tầm là tư duy suy nghĩ, tứ là tác ý. Tầm, tứ thuộc về ý thức của con người, là công cụ quan trọng nhất để tu hành, cho nên chúng ta không diệt tầm tứ, mà sử dụng tầm tứ để dẫn tâm vào đạo bằng cách triển khai tri kiến phân biệt cho thật rõ pháp nào là ác, pháp nào là thiện, rồi dùng pháp Như Lý Tác Ý đoạn dứt pháp ác, an trú tâm trong pháp thiện, xây dựng cho mình cuộc sống hạnh phúc, an vui, giải thoát.

Làm chủ lời nói

Nguyên Thanh

Tóm lại, trong giao tiếp với mọi người thì phải chánh niệm tĩnh giác quán xét cả nội tâm lẫn ngoại cảnh, tức là biết toàn diện, biết toàn diện là nhìn đời bằng đôi mắt nhân quả để ứng xử với nhau trên tinh thần không làm khổ mình khổ người, thì sẽ khắc phục được vấn đề chen ngang và áp đặt ý kiến của mình lên người khác, đó là làm chủ lời nói.

Thọ Bát Quan Trai

Nguyên Thanh

Như vậy, đối với một người còn sống giao tiếp thì giữ 5 tiêu chuẩn đạo đức làm người, nhìn đời bằng đôi mắt nhân quả, thỉnh thoảng thọ Bát Quan Trai để thực hiện đời sống không làm khổ mình khổ người, sống không làm khổ mình khổ người là giới luật, mà giới luật chính là nền tảng đạo đức, là cội gốc của thiền định, là bông trái của trí tuệ, do vậy đời sống đạo đức rất quan trọng đối với người tu hành giải thoát.