Khắc phục chứng tự kỷ
Nội dung mô tả
Tóm lại, tự kỷ là kết quả của việc nhìn đời qua lăng kính khối nghiệp sâu dày đã huân tập mà sao nhãng các diễn biến khác xảy ra xung quanh mình. Muốn xả bỏ chứng tự kỷ thì nên sống đúng 5 giới, trau dồi tâm từ để nâng cao sức tĩnh giác và triển khai tri kiến nhìn đời bằng đôi mắt duyên hợp nhân quả để xả tâm dính mắc, thì sẽ bào mòn nghiệp tự kỷ dần dần cho đến sạch hẳn.
Quý bạn đọc vui lòng chọn định dạng pdf hoặc epub, rồi nhấn nút “Đọc” ở trên để đọc toàn bộ nội dung bài triển khai tri kiến giải thoát, hoặc xem trực tiếp như sau:
Ngày 18 tháng 2 năm 2025
KHẮC PHỤC CHỨNG TỰ KỶ
Chú H.H thưa hỏi
Hỏi: Con chào cô Nguyên Thanh! Con thường theo dõi trang Fanpage “Triển Khai Tri Kiến Giải Thoát” để nghe những lời chỉ dạy Phật pháp từ cô. Con mong mọi sự tốt lành đến với cô, mà con nghĩ theo nhân quả nó sẽ như vậy thôi.
Con có một cháu gái gần 5 tuổi, cháu khỏe mạnh, nhưng được chẩn đoán trong phổ tự kỷ cỡ trung bình và nặng. Từ bé cháu không giao tiếp hay chơi với các bạn khác, không chủ động giao tiếp với cô giáo. Cháu nhiều lúc trong thế giới riêng của cháu, cười nói một mình, không để tâm xung quanh. Giờ cháu đang học mẫu giáo. Gia đình con còn một bé nữa, may mắn không có các triệu chứng giống chị.
Gia đình con đang dồn thời gian, công sức và tài chính cho cháu học các kỹ năng xã hội và ngôn ngữ bù lại sự thiếu hụt của cháu. Mẹ cháu rất vất vả tìm hiểu lo lắng tìm phác đồ và mời các chuyên gia để kèm cháu học. Gia đình con chỉ mong cháu học được càng nhiều càng tốt lúc nhỏ để sau này có thể hòa nhập và giao tiếp với bạn bè khi đi học tiểu học. Nếu không can thiệp lúc bé thì sau này rất khó để sửa. Nhiều lúc con nghĩ chỉ cần cháu chủ động chơi, có niềm vui chơi và cố gắng nói chuyện với các bạn bè khác thì đâu cần mệt mỏi học hành và kèm cặp như vậy. Có nhiều người tự kỷ (dạng nhẹ) và có trí tuệ phát triển thì sau này vẫn làm việc và tự lo cho bản thân được (làm những nghề không cần giao tiếp nhiều), nhưng những người dạng nặng sẽ không đủ điều kiện để học tập và làm việc.
Nếu được, con muốn hỏi nhân quả gì gây ra chứng tự kỷ của trẻ em và các bậc cha mẹ cần làm gì để chữa trị cho con thành công để con sau này tự lập được trong xã hội?
Con xin cảm ơn cô!
Đáp: Kính gửi chú H.H!
1- Tự kỷ là gì?
Tự kỷ, hay gọi đầy đủ là rối loạn phổ tự kỷ, là một hội chứng rối loạn phát triển có liên quan đến sự phát triển chức năng của não, đặc trưng bởi những khiếm khuyết về kỹ năng giao tiếp xã hội, ngôn ngữ hành vi, sở thích bị hạn chế hoặc lặp đi lặp lại.
Theo ghi nhận của y học, dù được xếp vào dạng tự kỷ, nhưng nhiều người vẫn có tài năng phi thường trong nhiều lĩnh vực, như: Stephen Wiltshire – Họa sĩ có trí nhớ siêu phàm có khả năng vẽ lại toàn bộ thành phố chi tiết sau khi chỉ nhìn lướt qua một lần; Nikola Tesla – Nhà phát minh, bị ám ảnh bởi các con số, có thói quen lặp đi lặp lại và cực kỳ nhạy cảm với âm thanh, ánh sáng; Isaac Newton – Nhà khoa học vĩ đại, thường xuyên chìm đắm trong công việc, rất ít giao tiếp xã hội, có xu hướng sống cô lập.
Dựa trên những đúc kết của y học, chúng ta có thể kết luận rằng thế giới quan của người tự kỷ có xu hướng tập trung hạn hẹp vào một số vấn đề nhất định nhưng lại thiếu cái nhìn toàn diện về các khía cạnh khác của cuộc sống. Điều này khiến họ có thể chú tâm sâu vào một lĩnh vực nhưng đồng thời sao nhãng những lĩnh vực khác.
Vì vậy, họ có thể gặp khó khăn trong giao tiếp xã hội, nơi đòi hỏi nhận thức toàn diện để ứng xử hài hòa theo bối cảnh, hoặc gặp trở ngại trong việc biểu đạt suy nghĩ của mình. Người tự kỷ thường có tư duy bảo thủ trong lĩnh vực họ quan tâm, dẫn đến sự kém linh hoạt trong những vấn đề khác khiến họ bị hạn chế trong giao tiếp xã hội, nơi mà tư duy cởi mở sẽ giúp việc tương tác trở nên dễ dàng hơn.
Vậy, bản chất của tự kỷ là gì?
Bản chất của bệnh tự kỷ là tâm đã huân tập một thói quen hành động, lời nói, suy nghĩ thành khối nghiệp lực, nên khối nghiệp này chi phối lại nhận thức khiến người đó bị dính mắc vào một số đối tượng, công việc, hành động tương ưng với nghiệp lực đã huân tập.
Nghiệp huân tập càng sâu dày, tâm càng dính mắc. Tâm càng dính mắc, chứng tự kỷ càng nặng. Tâm càng ít dính mắc, chứng tự kỷ càng nhẹ. Người mắc chứng tự kỷ thường có tư duy cứng nhắc theo nghiệp đã huân, nên không thích thay đổi mà luôn muốn mọi việc diễn ra theo một cách nhất định như những gì họ đã huân tập.
Chúng ta xem xét vài ví dụ như sau:
Ví dụ 1: Có người quá đam mê chơi game, dành hàng giờ chìm đắm trong thế giới ảo. Vì mải mê chơi, họ sao nhãng các hoạt động khác, ít giao tiếp xã hội, thích sống khép kín, và lơ đễnh khi trò chuyện về những chủ đề ngoài game.
Họ có thể sử dụng thuật ngữ game trong giao tiếp và thậm chí bị ảnh hưởng bởi hành vi trong game, chẳng hạn như có xu hướng bạo lực. Khi bị gián đoạn lúc chơi game, họ dễ cáu gắt, phản ứng mạnh. Nếu buộc phải giao tiếp, họ chỉ hứng thú với các chủ đề liên quan đến game, còn lại thường thờ ơ, thiếu quan tâm.
Như vậy, do huân tập hành động chơi game thành nghiệp lực sâu dày, nên nghiệp này chi phối trở lại tâm của người đó, khiến cho nhận thức, thái độ, hành vi của người này bị dính mắc vào game, mà sao nhãng với hoạt động khác trong đời sống, trong đó có việc giao tiếp tự nhiên. Đây là chứng tự kỷ.
Ví dụ 2: Bobby Fischer (1943 – 2008), người Mỹ – Đại kiện tướng cờ vua. Ông được mô tả là người đam mê cờ vua đến mức bỏ qua các hoạt động khác, chỉ quan tâm đến chiến thuật và các trận đấu. Ông có tính cách lập dị, ít giao tiếp, không quan tâm đến thế giới xung quanh. Càng về sau, ông sống cô lập và có những hành vi cực đoan.
Rõ ràng, Bobby Fischer đã huân tập thói quen chơi cờ vua thành khối nghiệp lực rất sâu dày, dường như thế giới của ông chỉ xoay quanh bàn cờ, nên ông không còn quan tâm đến các hoạt động khác xung quanh mình, vì thế nghiệp này chi phối sự nhận thức và hành vi của ông, khiến ông trở thành người lập dị, ít giao tiếp, sống cô lập và có hành vi cực đoan. Đó chính là chứng tự kỷ của ông.
Ví dụ 3: Howard Hughes (1905 – 1976), người Mỹ – Tỷ phú, nhà phát minh, đạo diễn. Ban đầu là người giao tiếp tốt nhưng về sau, ông bị ám ảnh với công việc và sự hoàn hảo. Ông thường dành hàng giờ để nghiên cứu, thiết kế máy bay, kiểm soát mọi chi tiết nhỏ nhất. Dần dần ông trở nên cô lập, không tiếp xúc với ai, chỉ giao tiếp qua giấy tờ hoặc điện thoại.
Như vậy, Howard Hughes từ một người bình thường, giao tiếp tốt, nhưng vì huân tập thói quen làm việc, nghiên cứu hàng giờ mỗi ngày trong việc thiết kế máy bay trở thành nghiệp sâu dày, chi phối lại nhận thức và hành vi của ông, khiến cho thế giới quan của ông chỉ xoay quanh việc thiết kế máy bay, mà không muốn giao tiếp với người khác nữa. Đây là chứng tự kỷ của ông.
Ví dụ 4: Queen Victoria (1819 – 1901) – Nữ hoàng Anh. Bà bị ám ảnh bởi cái chết của chồng, Hoàng tử Albert, qua đời năm 1861, khiến bà rơi vào trạng thái đau buồn kéo dài suốt 40 năm. Bà mặc đồ đen suốt phần đời còn lại, hạn chế xuất hiện trước công chúng, dành nhiều thời gian cô lập trong cung điện. Thậm chí, bà yêu cầu giữ nguyên phòng ngủ và các vật dụng của Albert như thể ông vẫn còn sống.
Như vậy, nghiệp ái kiết sử của Nữ hoàng Queen Victoria với chồng rất nặng, khiến bà ám ảnh với cái chết của chồng đến mức không thể trở về đời sống bình thường được, vì vậy mà bà không còn quan tâm nhiều đến các diễn biến xung quanh mình, sống đau buồn và cô đơn trong cung điện, ít giao tiếp. Đây là chứng tự kỷ của bà.
Vì tự kỷ là do tâm bị dính mắc vào một số đối tượng các pháp hạn hẹp nào đó, mà mất đi cái nhìn toàn diện đối với những diễn biến khác trong cuộc sống, dẫn đến có những suy nghĩ, hành vi, lối sống không phù hợp với chuẩn mực chung của cộng đồng, cho nên trong cuộc sống ai cũng đều có lúc mắc phải chứng tự kỷ cục bộ, tức là họ bị chứng tự kỷ này chi phối trong những khoảng thời gian ngắn, rồi sau đó bình thường trở lại.
Ví dụ 1: Có người bị ám ảnh bởi công việc trong một khoảng thời gian khiến họ mất ăn, mất ngủ, suốt ngày chỉ nghĩ đến công việc, mà không còn quan tâm đến điều gì khác nữa, kể cả những người thân trong gia đình. Thì đây có thể coi là dạng tự kỷ cục bộ.
Ví dụ 2: Cô N.H là một người rất ham tu thiền, cô tu hơi thở đến mức tâm bị dính chặt vào hơi thở, khiến cô bị ức chế, đau đầu và luôn có cảm giác khó chịu. Tình trạng kéo dài khiến cô không muốn làm gì, thậm chí có lúc muốn tự tử. May gặp Thầy Thông Lạc, Thầy khuyên nên xả bỏ pháp tu, sống bình thường, trau dồi tri kiến trở lại, thì một thời gian sau tâm cô không còn bị dính trên hơi thở nữa.
Như vậy, cô N.H đã huân tập nghiệp tu hơi thở đến mức tâm bị dính vào hơi thở, chi phối lại thân tâm của cô, khiến cô chịu cảm thọ khổ, không còn thiết tha gì đến các vấn đề khác xung quanh mình. Đó là dạng tự kỷ cục bộ.
Nên nhớ tu hơi thở là để tỉnh thức rồi xả tâm, chứ không phải tu hơi thở để chứng đạo. Nếu không hiểu điều này thì rất dễ ức chế tâm.
Ví dụ 3: Một người đi trên đường, nhưng tâm trí của họ bị dính mắc, bị lôi kéo vào một chuyện gì đó, khiến cho họ không quan sát đường cẩn thận, nên vấp ngã, thì đó cũng có thể xem là tự kỷ cục bộ.
Mọi người sống trên đời ai cũng bị dính mắc vào các pháp thế gian, không điều này thì điều khác. Nhưng nếu sự dính mắc đó chưa đủ sâu dày đến mức tâm trí và hành vi bị chi phối theo một hướng nào đó rõ rệt mà không còn quan tâm đến các vấn đề khác trong cuộc sống, thì không được liệt kê vào chứng tự kỷ.
2- Nhân quả của người bị chứng tự kỷ.
Từ những ví dụ trên thì chúng ta thấy rõ, nhân của chứng tự kỷ là do tâm huân tập một số hành động nào đó trở thành thói quen nghiệp lực rất mạnh, còn quả của bệnh tự kỷ là những biểu hiện về nhận thức, hành vi tương ứng với nghiệp lực đã gieo, như khó khăn trong giao tiếp, có hành vi lặp lại, thích sống theo thói quen cố định, nhạy cảm với những thay đổi của môi trường, bị thu hút bởi những đối tượng tương ưng với nghiệp đã huân tập.
Người tự kỷ sẽ nhìn đời qua lăng kính của nghiệp nhân đã tạo, nên thế giới quan của họ bị hạn hẹp trong lăng kính đó. Nếu nghiệp nhân càng dày thì biểu hiện tự kỷ càng rõ nét, nghiệp nhân càng mỏng thì biểu hiện tự kỷ ít rõ nét hơn.
Người mắc chứng tự kỷ là người bị nghiệp si nặng, si trong nhân quả, tâm bị lôi kéo, bị dính mắc với các pháp tương ưng với nghiệp đã huân. Nghiệp si là nghiệp vô minh, không thấy các pháp một cách toàn diện mà bị hạn hẹp theo một góc độ nào đó mà thôi.
Ví dụ 1: Người huân tập nghiệp nghiện game nặng chính là gieo nghiệp nhân, và nghiệp quả là tư duy của họ bị ám ảnh về game ngay cả khi không chơi; họ mất cân bằng trong cuộc sống thật do đắm chìm quá nhiều vào thế giới ảo, dễ bị chi phối bởi các quy tắc trong game khi ứng xử ngoài đời; khả năng giao tiếp của họ kém, suy giảm tập trung do não bộ mệt mỏi và dễ cáu gắt khi bị ngăn cản chơi game hoặc gặp thất bại trong game…
Ví dụ 2: Satoshi Tajiri là người có sự ám ảnh đặc biệt với thế giới côn trùng, ông đã dành nhiều giờ quan sát thế giới côn trùng từ khi còn nhỏ tạo thành nghiệp nhân dính mắc vào thế giới côn trùng. Chính vì thế, sau này ông đã sáng tạo ra thế giới Pokémon có hình dạng và đặc điểm giống con trùng. Ông chỉ thích làm việc một mình và gặp khó khăn trong giao tiếp xã hội.
Như vậy, sáng tạo nổi bật của Satoshi Tajiri là nhân vật Pokémon được thực hiện qua lăng kính tự kỷ của mình, đó là nghiệp yêu thích thế giới côn trùng mà ông đã huân tập.
Ví dụ 3: Tim Burton – Người kể chuyện lập dị của Hollywood. Ông đã huân tập thói quen dành hàng giờ để vẽ vời những bức tranh huyền bí và siêu thực, thiết kế và phát triển ý tưởng mà không cần ai xung quanh, ông thích làm việc trong bóng tối. Burton có một phong cách nghệ thuật rất độc đáo, thường sử dụng hình ảnh tăm tối, siêu thực và kỳ quái trong các bộ phim của mình.
Vợ cũ của Burton, Helena Bonham Carter, từng nhận thấy ông có vấn đề trong giao tiếp và thể hiện cảm xúc, điều này khiến cô nghi ngờ ông mắc hội chứng tự kỷ. Burton thường cô lập bản thân trong công việc và khó hiểu được cảm xúc của người khác.
Như vậy, Tim Burton sống như thế nào thì ông thể hiện cuộc sống như thế đó qua lăng kính nghiệp đã huân.
Chúng ta có thể so sánh ứng xử của con người với sự điều tiết của con mắt:
Người bình thường thì họ ứng xử hài hòa với các đối tượng trong môi trường tùy theo hoàn cảnh. Con mắt bình thường cũng vậy, có thể linh hoạt điều tiết để có thể nhìn xa, nhìn gần, tùy theo từng vật thể.
Người bị tự kỷ có thể ví như người bị chứng cận thị, mắt chỉ nhìn thấy rõ nét đối với những vật thể ở cự ly gần, ngoài cự ly đó thì mắt thấy mờ mờ, không rõ nét.
Nguyên nhân của chứng cận thị là do mắt nhìn gần quá lâu, nên mắt phải điều tiết thích ứng với khoảng cách đó, khiến thủy tinh thể phồng lên để tăng độ hội tụ ánh sáng. Nếu kéo dài, thủy tinh thể mất khả năng trở lại trạng thái mỏng khi nhìn xa, làm ánh sáng hội tụ trước võng mạc, gây cận thị giả. Khi tình trạng tiếp diễn, nhãn cầu có thể dài ra, dẫn đến cận thị thực sự, khiến mắt luôn ở trạng thái nhìn gần dù đang quan sát xa.
Những người tự kỷ có thể huân tập nghiệp nhân khác nhau: có người do quá đam mê game; có người rất yêu thích khoa học, công nghệ, hội họa, kiến trúc, triết học; có người tâm ái kiết sử quá nặng với một người nào đó… nhưng kết quả chung là họ đều thiếu nhận thức toàn diện về cuộc sống theo những chuẩn mực văn hóa chung của cộng đồng, chưa nói đến việc nhìn toàn diện cuộc đời bằng đôi mắt nhân quả, mặc dù họ có thể thành công trong lĩnh vực mà họ quan tâm.
Con gái của chú H.H mới 5 tuổi nhưng đã có những triệu chứng tự kỷ, thì chứng tỏ cháu đã gieo nghiệp nhân từ đời trước, nên đời này sinh ra cháu đã có những biểu hiện tự kỷ.
Chúng ta vừa đề cập tới nhân quả của bản thân người bị mắc chứng tự kỷ. Còn trong gia đình của người bị tự kỷ, thì nhân quả của các thành viên khác cũng đều có liên quan đến người này.
Ví dụ, trong gia đình, nếu người con mắc chứng tự kỷ, thì cha mẹ phải lo lắng, hao công tổn sức để chữa trị cho con, điều này thể hiện cái nghiệp mắc nợ của cha mẹ đối với đứa con đó.
3- Khắc phục chứng tự kỷ như thế nào?
Vì hiểu rõ nguyên nhân quả chứng tự kỷ là do tâm huân tập một số hành động thành khối nghiệp lực rất mạnh, khiến cho người đó bị dính mắc vào các đối tượng, hành vi, sở thích tương ưng với nghiệp đã tạo. Muốn khắc phục chứng tự kỷ thì cần phải xả bỏ tâm dính mắc vào những đối tượng đã huân tập. Càng xả tâm dính mắc vào những đối tượng tự kỷ thì chứng tự kỷ giảm dần và khi xả sạch thì chứng tự kỷ không còn nữa.
Để xả bỏ tâm dính mắc, cần tập chánh niệm tĩnh giác và triển khai tri kiến nhìn đời bằng đôi mắt duyên hợp toàn diện, rồi dùng pháp Như Lý Tác Ý để xả bỏ. Khi đó, nghiệp dính mắc sẽ mòn dần, đến khi không còn nữa là thành công.
Con gái chú mới 5 tuổi, cháu còn bé, nên chú cần phải trợ giúp cháu trong việc xả bỏ chứng tự kỷ này.
Chú nên tạo duyên cho cháu sống đúng 5 tiêu chuẩn đạo đức làm người, là những thiện pháp căn bản của con người để từ đó việc tập chánh niệm tĩnh giác và triển khai tri kiến duyên hợp cho cháu dễ dàng hơn.
Như đã nói ở trên, việc cháu bị tự kỷ khiến bố mẹ phải vất vả chăm sóc cũng phản ánh cái nợ nhân quả của bố mẹ đối với cháu. Vì vậy, bố mẹ cần vui vẻ, thương yêu, kiên trì, nhẫn nại khi hướng dẫn cháu xả bỏ chứng tự kỷ, dù khó khăn đến đâu.
Nếu cả gia đình có nhiều người cùng sống theo 5 giới, hiệu quả khắc phục chứng tự kỷ ở cháu sẽ càng cao. 5 giới là thiện pháp, mà thiện pháp là giới luật giúp tri kiến sáng suốt, hỗ trợ cháu chuyển đổi tự kỷ. Nhờ đó, cháu dễ tiếp nhận lời dạy bảo, thực hành theo hướng dẫn của cha mẹ, dẫn đến kết quả tốt hơn.
Vậy thực hành như thế nào?
a- Chánh niệm tĩnh giác:
Chánh niệm tĩnh giác là sự bình tĩnh trước nghiệp lực tác động. Tĩnh giác càng cao thì sức bình tĩnh trước nghiệp lực càng lớn, khiến cho tâm không bị nghiệp lôi kéo dính mắc vào các pháp trong môi trường. Các pháp ở đây là những diễn biến trong môi trường sống tương ưng với nghiệp mà người tự kỷ đã huân.
Người tự kỷ là người đắm chìm trong nghiệp đã huân tập, họ bị dính mắc vào các pháp tương ưng với nghiệp đó. Vì vậy, việc tập chánh niệm tĩnh giác là chống lại cái lực dính mắc này.
Chánh niệm tĩnh giác phải tập trong các hành động sống thường ngày của cháu một cách tự nhiên, chứ không cần phải sắp xếp không gian và thời gian riêng để tập. Phương pháp chánh niệm tĩnh giác ở đây là không được tập trung tâm vào một đối tượng nào cả, mà chính là trau dồi tâm từ để nâng cao sức tĩnh giác.
Trau dồi từ tâm rất quan trọng, nó có những tác dụng như sau:
˗ Nâng cao sức tĩnh giác: để tâm bình tĩnh trước nghiệp tác động.
˗ Đối trị tâm sân: Người tự kỷ thường nhìn thế giới theo lăng kính nghiệp lực đã huân, nếu mọi việc diễn biến ngoài lăng kính này sẽ khiến cho tâm của họ bị chướng ngại, sân giận, buồn phiền. Do vậy trau dồi tâm từ sẽ đối trị tâm chướng ngại, tức là đối trị tâm sân.
Lòng yêu thương giúp xả tâm chướng ngại, là xả bỏ tính cố chấp trong lòng, giúp cho cháu dễ hòa đồng với mọi người hơn.
˗ Trau dồi đức hiếu sinh, lòng yêu thương sự sống: Hành động từ tâm tạo ra từ trường của lòng yêu thương sẽ bảo vệ sự sống bình an của cháu. Vì bậc làm cha mẹ, ai cũng muốn con cái được bình an, mạnh khỏe, có đạo đức, thành công, thì trau dồi tâm từ sẽ đảm bảo cho mong ước đó thành hiện thực. Một người không có đức hiếu sinh thì đừng mong cuộc sống có bình an, mạnh khỏe hay đạo đức gì ở đây.
Trau dồi lòng thương yêu sẽ chiêu cảm lòng thương yêu của mọi người, khiến cho cháu dễ hòa nhập với mọi người hơn.
˗ Nâng cao tri kiến nhìn nhận môi trường sống một cách toàn diện, vì trau dồi tâm từ là phải quan sát các đối tượng xung quanh của mình.
Phương pháp thực hành:
˗ Khi chú đi dạo với cháu trên vỉa hè, ở sân nhà hay trong công viên… hãy làm gương và hướng dẫn cho cháu thực hành. Chú làm thế nào thì hãy bảo cháu làm như vậy. Chú nhắc tâm mình: “Cẩn thận không dẫm đạp các bạn kiến, trùng nhỏ bé, tôi biết tôi đang đi”, rồi bảo cháu làm y như vậy.
Sau đó chú quan sát môi trường xung quanh bước chân, nếu thấy những con kiến thì mình nên tránh ra, và bảo với cháu cũng làm như vậy.
Cứ 10 – 20 bước hoặc một khoảng cách cỡ 10 – 20m, thì chú tác ý một lần và cũng hướng dẫn cháu làm như vậy.
˗ Khi ngồi thì chú cũng nhắc tâm: “Cẩn thận không làm tổn hại các bạn kiến trùng nhỏ bé, tôi biết tôi đang ngồi”, rồi quan sát cẩn thận dưới chỗ mình ngồi, xem có kiến trùng hay không, nếu không thì mới ngồi. Còn nếu có thì không ngồi, mà ngồi chỗ khác không có kiến, trùng. Chú làm sao thì hướng dẫn cháu làm như vậy.
˗ Khi nằm chú cũng nhắc tâm: “Cẩn thận không làm tổn hại đến các bạn chúng sanh nhỏ bé, tôi biết tôi đang nằm”, rồi quan sát kỹ lưỡng, nếu không có chúng sanh thì mới nằm. Chú cũng dạy cháu làm như vậy.
˗ Khi nhặt rau chú nhắc tâm: “Cẩn thận không làm tổn hại đến những chúng sanh nhỏ bé, tôi biết tôi đang nhặt rau”, nếu có kiến hoặc sâu thì chú nên bỏ cọng rau ra vườn và bố thí cho chúng ăn. Chú làm sao thì cũng hướng dẫn cháu làm như vậy.
˗ Trước khi nói thì chú nhắc tâm: “Phải nói những lời tôn trọng mọi người, không làm tổn thương đến ai cả”, và chú cũng dạy cháu làm như vậy.
˗ Thỉnh thoảng chú nhắc tâm: “Tâm phải thương yêu mọi người, không được ghét ai cả”, và chú cũng dạy cháu làm như vậy…
Mỗi hành động sống hàng ngày như đi, đứng, nằm, ngồi, rửa tay, nhặt rau, quét nhà… chú đều có thể nương theo đó tư duy sáng tạo ra những câu Như Lý Tác Ý phù hợp để chính mình thực hiện và dạy cháu trau dồi tâm từ thành thói quen tích tập lòng yêu thương để nâng cao sức tĩnh giác, đối trị tâm chướng ngại.
b- Triển khai tri kiến nhìn đời toàn diện:
Tất cả các pháp trong thế giới này đều do các duyên hợp tạo thành, chứ không pháp nào có thể tồn tại độc lập riêng lẻ được. Vì thế, chú hãy lấy mọi sự việc xảy ra trong cuộc sống làm đề tài để triển khai cho cháu hiểu cái lý duyên hợp này. Nên lựa khoảng thời gian cháu vui vẻ, thoải mái thì chú hãy triển khai nhẹ nhàng để cháu thấm từ từ. Còn nếu cháu buồn rầu, thì mình nên an ủi để cháu thoải mái trở lại.
Một số ví dụ triển khai tri kiến nhìn đời toàn diện như sau:
Ví dụ 1: Khi cháu mặc một bộ quần áo đẹp, thì chú hãy khen ngợi cháu, sau đó hỏi cháu rằng: “Con có biết để có bộ quần áo này thì phải có rất nhiều công đoạn, nhiều người tham gia tạo thành không?”. Đợi cháu suy nghĩ và lắng nghe ý kiến của cháu, sau đó chú giải thích rằng: “Để có bộ quần áo này, đầu tiên người nông dân phải trồng những cây bông, sau đó những quả bông được thu hoạch đưa vào nhà máy, những người công nhân dệt thành những tấm vải, những tấm vải được đưa ra chợ bán cho những công ty sản xuất quần áo, có người thiết kế, có thợ may… tham gia sản xuất ra bộ quần áo này. Sau đó, bộ quần áo được bày bán ở các cửa hàng. Bố mẹ thấy và mua cho con. Quá trình này rất có nhiều người làm việc, giao tiếp, trao đổi với nhau và có nhiều yếu tố cùng tham gia để tạo nên bộ quần áo”. Chú phân tích nhẹ nhàng để cháu thấy được cái lý duyên hợp của bộ quần áo.
Sau đó, chú nhắc cháu: Để có bộ quần áo đẹp như thế này thì cần công sức của nhiều người và nhiều vật, cho nên mình phải biết tôn trọng tất cả mọi người, không được chướng ngại với ai cả.
Ví dụ 2: Khi ăn một quả cam, thì chú cũng hỏi con tương tự: “Để có quả cam ở đây con có biết bao nhiêu yếu tố kết hợp lại mà thành không?”. Cũng đợi cháu suy nghĩ, đưa ra ý kiến, rồi chú mới giải thích: “Đầu tiên, người nông dân phải gieo những hạt cam xuống đất, những hạt cam kết hợp với đất, nước, không khí, nhiệt độ, độ ẩm, phân bón phù hợp thì mới phát triển thành cây cam, sau đó cho ra những quả cam. Có quả bị rụng, có quả thì được thu hoạch khi chín. Sau đó người thương lái mua về phân phối trong các cửa hàng, chợ, siêu thị để bán cho mọi người, giống như con thấy quả cam này”.
Vì vậy, để có được quả cam này, phải nhờ vào công sức của nhiều người, nhiều điều kiện như thời tiết, khí hậu, giao thông… hội đủ, cho nên chúng ta hãy tôn trọng, biết ơn tất cả mọi người.
Ví dụ 3: Khi đứng trước ngôi nhà, thì chú hỏi con rằng: “Để có ngôi nhà này thì biết bao nhiêu yếu tố hợp lại, con có biết không?”. Chú đợi cháu suy tư một chút rồi mới giải thích: “Để làm ra ngôi nhà này, đầu tiên là người ta phải có ý muốn xây nhà, rồi lên ý tưởng, nhờ kiến trúc sư thiết kế, được chính quyền cho phép, có nhà thầu thi công, đủ vật liệu, sau bao nhiêu ngày làm việc và mọi người phải trao đổi, bàn bạc với nhau rất nhiều để thống nhất và phối hợp thì mới hoàn thành được ngôi nhà như ý muốn”. Cho nên, phải hội đủ các yếu tố nhân duyên thì mới có thể thành ngôi nhà được.
Mọi việc xảy ra xung quanh đời sống đều là đề tài thực tế để chú triển khai tri kiến nhìn mọi việc bằng đôi mắt duyên hợp cho cháu thấm nhuần từ ngày này qua ngày khác, thì tự tâm của cháu sẽ xả dần sự dính mắc vào các đối tượng tự kỷ mà cháu đã từng huân tập.
Ví dụ 4: Chú có thể mua một ít hạt giống, như cà chua, đu đủ… cùng các dụng cụ cần thiết rồi rủ cháu cùng tham gia gieo hạt, trồng cây trong vườn hoặc trong xô, chậu… Hàng ngày, hai cha con chăm sóc cây, nói chuyện về cây để khéo léo triển khai lý duyên hợp nhân quả cho cháu hiểu thông qua ví dụ thực tế, trực quan, sinh động.
Hạt giống gieo xuống phải hội đủ các yếu tố như đất, nước, không khí, nhiệt độ, độ ẩm, ánh sáng… thì mới phát triển được. Nếu không có đủ các yếu tố đó, hạt giống sẽ bị tan hoại và không thể phát triển thành cây. Khi hạt giống nảy mầm và phát triển, mỗi lần mình tưới cây là một lần góp phần tạo nên sự sống của cây đó. Những con ong, bướm, côn trùng tác động lên cây cũng là những duyên hợp góp phần vào sự sống của cây. Côn trùng phân hủy đất giúp đất tơi xốp, dễ hấp thụ dinh dưỡng; ong, bướm giúp hoa thụ phấn…
Cho đến ngày cây ra quả, từ quả nhỏ đến quả to, từ quả dưới gốc đến quả trên ngọn, từ quả trong bóng râm đến quả ngoài nắng, từ quả bình thường đến quả bị ong chích đều khác nhau về hình dáng bên ngoài và tính chất bên trong do duyên hợp khác nhau. Có quả rụng khi còn nhỏ, có quả lớn hơn một chút bị mưa gió thổi rụng, có quả bị côn trùng ăn, có quả rụng do ai đó vô tình làm cây chấn động mạnh, có quả được con người thu hoạch, có quả chết già… là những duyên tan hoại của quả đó.
Từ khi gieo hạt, đủ duyên hợp để thành cây, đến khi ra hoa, đậu quả, quả lớn dần rồi tan hoại, tiếp đó là sự tan hoại của cả cây, biết bao nhiêu chuyện để nói. Đây là thực tế trực quan để chú giúp cháu hiểu và thấm nhuần từ từ lý duyên hợp, duyên tan, duyên chuyển đổi một cách thực tế, tự nhiên, hiệu quả.
Chú khéo triển khai để cháu hiểu rằng, để có quả ngọt thì phải hội đủ rất nhiều duyên kết hợp nhau hài hòa, chứ không thể tập trung vào duyên này mà thiếu duyên khác được. Nếu thiếu nước, cây sẽ khô héo; nếu thừa nước, cây sẽ ngập úng. Nếu thiếu ánh sáng, cây sẽ yếu ớt, thiếu sức sống; nếu thừa ánh sáng, cây sẽ bị héo, cháy nắng, khô cành. Nếu không có ong bướm thụ phấn, số lượng và chất lượng đậu quả sẽ giảm. Nếu không có sự chăm bón đúng cách của con người, cây có thể phát triển kém đi…
Từ nhân quả thảo mộc, chú liên hệ đến con người nhằm giúp cháu hiểu rằng, để trở thành một người tốt và trưởng thành, cần hội tụ nhiều yếu tố kết hợp như: sức khỏe, vệ sinh, đạo đức, văn hóa, kỹ năng giao tiếp, kiến thức, kỹ năng sống, mục tiêu, lý tưởng, nhận thức xã hội, tinh thần cộng đồng, hiểu biết khoa học, kỹ năng nghề nghiệp… Chứ không thể chỉ tập trung vào một vài điều mà mình quan tâm. Nhờ đó, cháu sẽ dần buông bỏ tâm cố chấp và từng bước phá bỏ chứng tự kỷ.
Chú hãy tham khảo bài “Nhân quả thảo mộc” để hiểu rõ hơn về cách triển khai, rồi áp dụng đối với cháu.
Nếu có điều kiện, thỉnh thoảng chú hãy dẫn cháu đến những nơi có khung cảnh thiên nhiên rộng lớn như bầu trời, cánh đồng, bãi biển, dòng sông để cùng nhau ngắm cảnh. Chính sự bao la, trải dài của thiên nhiên giúp tâm trạng con người rộng mở, bớt dính mắc, qua đó góp phần bào mòn nghiệp tự kỷ của cháu.
Khi cháu làm một điều gì, hãy tập cho cháu quan sát toàn diện trước rồi mới làm. Ví dụ:
˗ Khi ngồi vào bàn ăn thì quan sát toàn diện, xem bàn ăn có vệ sinh không? Dụng cụ ăn uống đầy đủ chưa? Mọi người đã sẵn sàng chưa? Khi mọi thứ đã sẵn sàng thì mới ăn.
˗ Khi chơi đồ chơi thì quan sát toàn diện căn phòng, xem chỗ đó có sạch sẽ không? Có bị vướng không? Nếu mọi thứ đã ổn thì mới trải đồ chơi ra chơi.
˗ Đi ra đường thì hãy quan sát tổng quan xem hiện trạng giao thông, rồi mới đi, cứ thường xuyên làm như vậy để đảm bảo giao thông an toàn.
Thói quen quan sát tổng quan trước khi làm việc giúp cho tâm cháu giãn ra, thấy được hành động của mình trong bối cảnh chung, chứ không chỉ nhăm nhăm tập trung vào việc của mình.
Khi cháu đã có sự hiểu biết nhất định về lý duyên hợp nhân quả của các pháp, thì chú hãy hướng dẫn cháu thỉnh thoảng tác ý: “Mọi sự vật đều do duyên hợp tạo thành, vì thế ta phải luôn nhìn vấn đề một cách toàn diện để tôn trọng và ứng xử hài hòa với mọi người, mọi vật, chứ tâm không được cố chấp vào một đối tượng, sở thích, hành vi nào”, hoặc: “Cuộc sống này là duyên hợp toàn diện, nên ta phải linh hoạt ứng xử theo tình huống, chứ không được dính mắc, cố chấp vào bất cứ thứ gì”.
Các pháp trên thế gian này là nhân quả, do các duyên hợp lại tạo thành, mà các duyên tạo thành các pháp là vô số, cho nên phải nhìn các pháp bằng đôi mắt duyên hợp thì mới đúng.
Người tự kỷ nhìn thế giới bằng con mắt đơn hướng, chỉ tập trung vào những pháp tương ưng với khối nghiệp đã huân tập. Do vậy, triển khai tri kiến duyên hợp đa hướng là phá đi cái nghiệp tự kỷ đơn hướng, để người đó có nhận thức toàn diện trở lại, thì chứng tự kỷ sẽ từ từ muội lược dần.
c- Giao tiếp:
Chú luôn tạo cơ hội khuyến khích cháu giao tiếp, trong gia đình cũng như trong môi trường xã hội.
Ví dụ 1: Khi làm việc ở nhà, chú có thể nhờ cháu bảo với mẹ pha dùm một cốc nước cam. Đó là cách thức tạo ra sự tương tác giữa các thành viên trong gia đình.
Ví dụ 2: Khi đi siêu thị, chú có thể nhờ cháu hỏi nhân viên về giá của một vài sản phẩm nào đó.
Người bị chứng tự kỷ thường ngại giao tiếp, nên chú phải tạo duyên cho cháu huân tập thói quen giao tiếp từ trong gia đình đến ngoài xã hội để cháu không còn ngại ngùng nữa, góp phần xóa đi chứng tự kỷ.
Nguyên Thanh biết một Phật tử là kỹ sư rất giỏi kể rằng: Trước đây, chú rất khó biểu đạt suy nghĩ của mình, thường hay bị đứt đoạn. Chú cũng ít nói và ngại giao tiếp, đặc biệt là với người lạ. Chỉ khi gặp người quen và hợp ý, chú mới có thể trò chuyện một cách tự nhiên. Sau này, khi gặp chánh pháp và trải qua quá trình tập tĩnh giác, triển khai tri kiến để xả tâm, chú nhận thấy tâm mình trở nên cởi mở hơn, việc giao tiếp và biểu đạt ngôn ngữ cũng trở nên thông suốt, dễ dàng hơn so với trước đây.
Dù chú này không được xếp vào dạng tự kỷ, nhưng bản chất là tâm bị dính mắc vào các pháp, nên bị chi phối làm cho mất tĩnh giác, khiến chú ấy khó biểu đạt suy nghĩ của mình một cách thông suốt. Sau này nhờ gặp chánh pháp, biết triển khai tri kiến, biết xả tâm, thì tâm trở nên có tĩnh giác, trí sáng suốt, suy nghĩ thông suốt và giao tiếp tốt hơn.
Trạng thái tâm hoàn hảo nhất của một con người là tâm định tĩnh, nhu nhuyễn, dễ sử dụng. Đây là trạng thái tâm không dính mắc các pháp thế gian, là tâm bất động trước các pháp, là tâm sáng suốt và thích ứng được mọi hoàn cảnh để ứng xử đúng đạo đức không làm khổ mình khổ người, là tâm giải thoát hoàn toàn.
Tâm người tự kỷ là tâm dính mắc do khối nghiệp rất sâu dày chi phối, nên cứng nhắc và khó sử dụng. Vì vậy, việc tập chánh niệm tĩnh giác và triển khai tri kiến xả tâm thì có thể bào mòn được khối nghiệp tự kỷ này, giúp tâm trở nên nhu nhuyễn, dễ sử dụng hơn.
Tóm lại, tự kỷ là kết quả của việc nhìn đời qua lăng kính khối nghiệp sâu dày đã huân tập mà sao nhãng các diễn biến khác xảy ra xung quanh mình. Muốn xả bỏ chứng tự kỷ thì nên sống đúng 5 giới, trau dồi tâm từ để nâng cao sức tĩnh giác và triển khai tri kiến nhìn đời bằng đôi mắt duyên hợp nhân quả để xả tâm dính mắc, thì sẽ bào mòn nghiệp tự kỷ dần dần cho đến sạch hẳn.
TM. Ban Biên tập
Sc. Nguyên Thanh
Leave a Comment

Tóm lại, nếu thấu rõ đời người là những vở tuồng nhân quả diễn ra trên bốn sân khấu: thân, thọ, tâm, pháp, dưới bàn tay đạo diễn của nghiệp lực, chúng ta cần phải sống thuận đạo lý nhân quả, không làm khổ mình khổ người, thì chân lý giải thoát sẽ hiện tiền trong tâm, giúp ta sống bình an trong nghiệp quả của mình.

Tóm lại, Đạo Phật dạy đời là khổ để vượt lên cái khổ của cuộc đời, để chuyển hóa cuộc đời vô đạo đức thành đời sống có đạo đức, biến cảnh sống bất an thành hoàn cảnh thuận lợi, chứ không phải là để trốn tránh cái khổ. Muốn vậy, chúng ta phải sống đúng 5 tiêu chuẩn đạo đức làm người, xả tâm trước các đối tượng và vui vẻ làm tròn bổn phận nhân quả của mình, thì sẽ được bình an trong nhân quả.

Tóm lại, khi sáu căn tiếp xúc với sáu trần thì sinh ra các cảm thọ, các cảm thọ sinh ra dục, từ dục con người mới sinh ra dính mắc các pháp trần, do dính mắc các pháp trần nên mới sinh ra tâm tham, sân, si, tức là dục tham, dục sân, dục si để tạo nghiệp tham, sân, si khiến con người phải chịu nhiều ưu bi, sầu khổ, bệnh, chết. Cho nên, phải tu tập theo lộ trình Bát Chánh Đạo để ly dục ly ác pháp, tức là giữ tâm bất động trước ác pháp và cảm thọ, thì tâm sẽ được giải thoát khổ đau.

Tóm lại, muốn thấy được gốc rễ cần phải nhìn xuyên qua cành lá, muốn hiểu được bản chất của vấn đề thì phải nhìn xuyên qua các hiện tượng. Con người trên thế gian này hạnh phúc hay khổ đau, bệnh tật hay khỏe mạnh đều do hạnh nghiệp nhân quả mà ra. Vì vậy, hãy tự mình thắp lên ngọn đuốc đạo đức nhân quả, sống không làm khổ mình khổ người, mới có thể chuyển đổi được nghiệp khổ thành cuộc sống hạnh phúc, an vui, giải thoát.

Tóm lại, pháp tu của người già là ngồi chơi xả tâm, tức là tu Tứ Niệm Xứ trên Tứ Niệm Xứ. Khi có chướng ngại nào xảy ra trên bốn chỗ thân, thọ, tâm, pháp, thì dùng pháp Như Lý Tác Ý đuổi đi cho thật sạch để bảo vệ chân lý thanh thản, an lạc, vô sự. Cứ siêng năng tu tập đến khi tâm đủ nội lực bất động trước cận tử nghiệp thì không còn tái sanh luân hồi.

Tóm lại, hàng ngày trong mọi công việc chúng ta cần nương theo thân hành để tập Chánh Niệm Tĩnh Giác, nhờ sức tĩnh giác này mà tâm bình tĩnh dùng tri kiến đạo đức nhân bản – nhân quả điều khiển hành động thân, khẩu, ý không làm khổ mình khổ người, đó chính là “sống là tu, tu là sống” để đem lại sự hạnh phúc, an vui cho mình và mọi người.

Tóm lại, lòng từ như cơn gió mát, thổi đến đâu sẽ xua tan đi cái nóng bức, ngột ngạt tỏa ra từ tâm sân hận đến đó. Cho nên, chúng ta cần phải cố gắng trau dồi lòng từ trong các hành động sống hàng ngày để lòng từ là mình, mình là lòng từ, thì tâm ta sẽ không còn chướng ngại và dung thông với vạn hữu trong tình thương yêu và tha thứ. Nếu thực hành được như vậy, cuộc sống của chúng ta ngày càng trở nên vui tươi, hạnh phúc và bình an.

Tóm lại, tầm là tư duy suy nghĩ, tứ là tác ý. Tầm, tứ thuộc về ý thức của con người, là công cụ quan trọng nhất để tu hành, cho nên chúng ta không diệt tầm tứ, mà sử dụng tầm tứ để dẫn tâm vào đạo bằng cách triển khai tri kiến phân biệt cho thật rõ pháp nào là ác, pháp nào là thiện, rồi dùng pháp Như Lý Tác Ý đoạn dứt pháp ác, an trú tâm trong pháp thiện, xây dựng cho mình cuộc sống hạnh phúc, an vui, giải thoát.

Tóm lại, trong giao tiếp với mọi người thì phải chánh niệm tĩnh giác quán xét cả nội tâm lẫn ngoại cảnh, tức là biết toàn diện, biết toàn diện là nhìn đời bằng đôi mắt nhân quả để ứng xử với nhau trên tinh thần không làm khổ mình khổ người, thì sẽ khắc phục được vấn đề chen ngang và áp đặt ý kiến của mình lên người khác, đó là làm chủ lời nói.

Như vậy, đối với một người còn sống giao tiếp thì giữ 5 tiêu chuẩn đạo đức làm người, nhìn đời bằng đôi mắt nhân quả, thỉnh thoảng thọ Bát Quan Trai để thực hiện đời sống không làm khổ mình khổ người, sống không làm khổ mình khổ người là giới luật, mà giới luật chính là nền tảng đạo đức, là cội gốc của thiền định, là bông trái của trí tuệ, do vậy đời sống đạo đức rất quan trọng đối với người tu hành giải thoát.

Tóm lại, tu đúng là làm chủ cái ngủ, làm chủ cái ngủ là tu. Muốn làm chủ cái ngủ thì phải giữ gìn giới luật nghiêm chỉnh, giữ gìn giới luật nghiêm chỉnh là triển khai tri kiến giải thoát, triển khai tri kiến giải thoát thì phải thông suốt Định Vô Lậu và rèn luyện chánh niệm tĩnh giác, đó là những vũ khí chính để xả tâm tham, sân, si, quét sạch hôn trầm, nhường chỗ cho tâm thanh thản, an lạc, giải thoát.

Tóm lại, sự bố thí, làm từ thiện phải thực hiện đúng lộ trình nhân quả: nếu chúng sanh sống thiện mà gặp khó khăn thì chúng ta nên giúp đỡ để họ tiếp tục sống thiện; còn nếu chúng sanh sống ác mà gặp khó khăn thì ta nên để họ tự trả nhân quả; nếu chúng ta giúp đỡ chúng sanh mà tạo duyên phát sinh ác pháp cản trở tức là chúng sanh chưa đủ duyên phước để nhận sự giúp đỡ này, thì chúng ta nên dừng lại, hoặc là khuyên nhủ họ nên sống thiện bồi đắp phước đức để chuyển đổi nhân quả.

Tóm lại, pháp sai chứ người không sai. Vì pháp sai nên làm cho con người bị ức chế tâm trong hình thức giới luật, tiến lên thì không được mà lùi xuống thì phạm giới, nên kiểu gì cũng bị khổ đau. Còn khi gặp đúng chánh pháp, giúp chúng ta biết cách triển khai tri kiến xả tâm, ly dục ly ác pháp, hóa giải mọi chướng ngại trong lòng để tâm trở về trạng thái thanh thản, an lạc, vô sự, vượt qua nhân quả, vững bước tiến lên trên con đường giải thoát.

Tóm lại, nghiệp tương ưng tái sanh luân hồi, tạo ra sự sống mới, khổ đau hay hạnh phúc đều do hạnh nghiệp mà ra. Nghiệp do tâm tạo, cho nên chúng ta phải biết thương tâm nghiệp lực của mình, thương tâm nghiệp lực của mình thì phải biết triển khai tri kiến nhìn đời bằng đôi mắt nhân quả để sống không làm khổ mình khổ người thì sẽ tiến hóa trên con đường thiện, giải thoát tâm mình ra khỏi mọi sự khổ đau và chấm dứt tái sanh luân hồi.

Tóm lại, càng siêng năng quét nhà thì nhà càng sạch, càng siêng năng xả tâm thì tâm càng sáng. Muốn tâm thanh tịnh thì phải trực tiếp trong mọi cảnh phản tỉnh tâm mình, luôn ngăn ác diệt ác pháp để tâm không còn chướng ngại, nên tâm dung thông với vạn hữu trong tình thương yêu và tha thứ, đó chính là hạnh phúc chân thật của cuộc đời.
Tri Kiến Giải Thoát
3 tuần trước
"Tâm người tự kỷ là tâm dính mắc do khối nghiệp rất sâu dày chi phối, nên cứng nhắc và khó sử dụng. Vì vậy, việc tập chánh niệm tĩnh giác và triển khai tri kiến xả tâm thì có thể bào mòn được khối nghiệp tự kỷ này, giúp tâm trở nên nhu nhuyễn, dễ sử dụng hơn." (Sc. Nguyên Thanh)
Các tương tác cảm xúc
Tri Kiến Giải Thoát
3 tuần trước
"Người tự kỷ nhìn thế giới bằng con mắt đơn hướng, chỉ tập trung vào những pháp tương ưng với khối nghiệp đã huân tập. Do vậy, triển khai tri kiến duyên hợp đa hướng là phá đi cái nghiệp tự kỷ đơn hướng, để người đó có nhận thức toàn diện trở lại, thì chứng tự kỷ sẽ từ từ muội lược dần." (Sc. Nguyên Thanh)
Các tương tác cảm xúc
Tri Kiến Giải Thoát
3 tuần trước
"Vì hiểu rõ nguyên nhân quả chứng tự kỷ là do tâm huân tập một số hành động thành khối nghiệp lực rất mạnh, khiến cho người đó bị dính mắc vào các đối tượng, hành vi, sở thích tương ưng với nghiệp đã tạo. Muốn khắc phục chứng tự kỷ thì cần phải xả bỏ tâm dính mắc vào những đối tượng đã huân tập. Càng xả tâm dính mắc vào những đối tượng tự kỷ thì chứng tự kỷ giảm dần và khi xả sạch thì chứng tự kỷ không còn nữa." (Sc. Nguyên Thanh)
Các tương tác cảm xúc
Tri Kiến Giải Thoát
3 tuần trước
"Chúng ta có thể so sánh ứng xử của con người với sự điều tiết của con mắt:
Người bình thường thì họ ứng xử hài hòa với các đối tượng trong môi trường tùy theo hoàn cảnh. Con mắt bình thường cũng vậy, có thể linh hoạt điều tiết để có thể nhìn xa, nhìn gần, tùy theo từng vật thể.
Người bị tự kỷ có thể ví như người bị chứng cận thị, mắt chỉ nhìn thấy rõ nét đối với những vật thể ở cự ly gần, ngoài cự ly đó thì mắt thấy mờ mờ, không rõ nét." (Sc. Nguyên Thanh)
Các tương tác cảm xúc
Tri Kiến Giải Thoát
3 tuần trước
"Người tự kỷ sẽ nhìn đời qua lăng kính của nghiệp nhân đã tạo, nên thế giới quan của họ bị hạn hẹp trong lăng kính đó. Nếu nghiệp nhân càng dày thì biểu hiện tự kỷ càng rõ nét, nghiệp nhân càng mỏng thì biểu hiện tự kỷ ít rõ nét hơn.
Người mắc chứng tự kỷ là người bị nghiệp si nặng, si trong nhân quả, tâm bị lôi kéo, bị dính mắc với các pháp tương ưng với nghiệp đã huân. Nghiệp si là nghiệp vô minh, không thấy các pháp một cách toàn diện mà bị hạn hẹp theo một góc độ nào đó mà thôi." (Sc. Nguyên Thanh)
Các tương tác cảm xúc
Tri Kiến Giải Thoát
3 tuần trước
"Từ những ví dụ trên thì chúng ta thấy rõ, nhân của chứng tự kỷ là do tâm huân tập một số hành động nào đó trở thành thói quen nghiệp lực rất mạnh, còn quả của bệnh tự kỷ là những biểu hiện về nhận thức, hành vi tương ứng với nghiệp lực đã gieo, như khó khăn trong giao tiếp, có hành vi lặp lại, thích sống theo thói quen cố định, nhạy cảm với những thay đổi của môi trường, bị thu hút bởi những đối tượng tương ưng với nghiệp đã huân tập." (Sc. Nguyên Thanh)
Các tương tác cảm xúc
Tri Kiến Giải Thoát
3 tuần trước
"Mọi người sống trên đời ai cũng bị dính mắc vào các pháp thế gian, không điều này thì điều khác. Nhưng nếu sự dính mắc đó chưa đủ sâu dày đến mức tâm trí và hành vi bị chi phối theo một hướng nào đó rõ rệt mà không còn quan tâm đến các vấn đề khác trong cuộc sống, thì không được liệt kê vào chứng tự kỷ." (Sc. Nguyên Thanh)
Các tương tác cảm xúc
Tri Kiến Giải Thoát
3 tuần trước
"Bản chất của bệnh tự kỷ là tâm đã huân tập một thói quen hành động, lời nói, suy nghĩ thành khối nghiệp lực, nên khối nghiệp này chi phối lại nhận thức khiến người đó bị dính mắc vào một số đối tượng, công việc, hành động tương ưng với nghiệp lực đã huân tập.
Nghiệp huân tập càng sâu dày, tâm càng dính mắc. Tâm càng dính mắc, chứng tự kỷ càng nặng. Tâm càng ít dính mắc, chứng tự kỷ càng nhẹ. Người mắc chứng tự kỷ thường có tư duy cứng nhắc theo nghiệp đã huân, nên không thích thay đổi mà luôn muốn mọi việc diễn ra theo một cách nhất định như những gì họ đã huân tập." (Sc. Nguyên Thanh)
Các tương tác cảm xúc
Tri Kiến Giải Thoát
3 tuần trước
"Dựa trên những đúc kết của y học, chúng ta có thể kết luận rằng thế giới quan của người tự kỷ có xu hướng tập trung hạn hẹp vào một số vấn đề nhất định nhưng lại thiếu cái nhìn toàn diện về các khía cạnh khác của cuộc sống. Điều này khiến họ có thể chú tâm sâu vào một lĩnh vực nhưng đồng thời sao nhãng những lĩnh vực khác." (Sc. Nguyên Thanh)
Các tương tác cảm xúc