Lòng từ đối trị tâm sân trong đời sống

Nguyên Thanh

9 Tháng Mười, 2019

  • Bỏ chọn
  • Bỏ chọn
7

Các tương tác cảm xúc

Tất cả
7
Bạn
  • 1 người khác thấy bổ ích
  • 1 người khác thấy cảm hứng
  • 2 người khác thấy xúc động
Chuyển sang nghe podcast

Nội dung mô tả

Tóm lại, lòng từ như cơn gió mát, thổi đến đâu sẽ xua tan đi cái nóng bức, ngột ngạt tỏa ra từ tâm sân hận đến đó. Cho nên, chúng ta cần phải cố gắng trau dồi lòng từ trong các hành động sống hàng ngày để lòng từ là mình, mình là lòng từ, thì tâm ta sẽ không còn chướng ngại và dung thông với vạn hữu trong tình thương yêu và tha thứ. Nếu thực hành được như vậy, cuộc sống của chúng ta ngày càng trở nên vui tươi, hạnh phúc và bình an.

– Nguyên Thanh

Ngày 9 tháng 10 năm 2019

LÒNG TỪ ĐỐI TRỊ TÂM SÂN TRONG ĐỜI SỐNG

Phật tử T.N.C thưa hỏi

Hỏi: Con chào sư cô Nguyên Thanh! Xin sư cô cho phép con được thưa hỏi con là một cư sĩ còn có gia đình và đi làm nên gia duyên còn nhiều, tính con hay sân hận và con rất thấy xấu hổ vì tính tình này. Con rất muốn tu tập để xả bỏ tâm sân hận này, nhưng con gặp khó khăn, có những lúc cơn giận đến nhanh quá con không tĩnh giác để nhận thấy sự có mặt của nó để xả bỏ nó ra. Vậy con xin sư cô chỉ dạy dùm con, con hiện đang còn là cư sĩ thì trong điều kiện hiện nay làm thế nào để rèn luyện sức tĩnh giác? Để tu tập Chánh Niệm Tĩnh Giác thì hàng ngày con cần phải tu tập những gì? Con xin cám ơn sư cô!

Con xin sư cô giải thích thêm dùm con sự khác nhau giữa Tĩnh Giác Chánh Niệm và Tỉnh Thức Chánh Niệm.

Con chân thành cảm ơn sư cô! Tại vì con đọc sách thấy tu tập Định Chánh Niệm Tĩnh Giác mà con thật sự không hiểu rõ lắm!

Đáp: Kính gửi chú T.N.C!

Trong thư chú kể thì chú có tính hay sân, hiện đang làm việc và sống với gia đình. Khi chú sân mà không kiềm chế được, chú rất xấu hổ về điều đó, có nghĩa là chú rất thành tâm muốn dứt bỏ tâm sân để đem lại sự bình an cho chú và mọi người xung quanh. Nếu tu tập đúng phương pháp, chú sẽ dứt bỏ được tâm sân hận không phải là khó khăn lắm.

Tác hại của tâm sân thì ai cũng biết và Nguyên Thanh đã phân tích trong bài Xả tâm sân hận được đăng trên trang Facebook Triển Khai Tri Kiến Giải Thoát, bây giờ chúng ta sẽ đi sâu vào vấn đề là đối trị nó như thế nào trong hoàn cảnh còn gia duyên bận rộn.

Người hay sân là người thiếu sự bình tĩnh trước ác pháp nên tâm bị nghiệp sân chi phối, vì thế phản ứng ra hành động: ý bực tức, mặt biến sắc, tim đập nhanh, miệng quát tháo, nói xấu, buộc tội, hoặc lý luận hơn thua, tay chân vùng vằng… Lúc bấy giờ người này chỉ thấy đúng sai, phải trái chứ không còn thấy nhân quả được nữa, dù người này có kiến thức Định Vô Lậu nhưng không ứng dụng được khi tâm hoàn toàn làm theo sự thúc đẩy của nghiệp sân, tức là thiếu chánh niệm tĩnh giác. Do thấy đúng sai phải trái nên người đang sân sẽ có chướng ngại trong lòng, có chướng ngại nên mới làm khổ mình khổ người.

Người đang sân là người như bị lửa đốt trong lòng nên hành động nóng nảy, không còn bình tĩnh cân nhắc thiện ác, vì thế có thể gây nhiều ác pháp, thậm chí giết người.

Có người chỉ vài câu nói khích là có thể cầm dao đâm bạn bè được.

Có đôi vợ chồng đang ngồi vừa ăn cơm vừa xem tivi vui vẻ, chỉ vì một câu nói của người vợ chướng tai là người chồng có thể hất đổ cả mâm cơm, tình nghĩa vợ chồng thoáng chốc còn lại nỗi tủi hờn và giọt nước mắt đầm đìa vai áo.

Rồi những đứa con thơ buổi sáng sớm còn hôn má chào bố trước khi đi làm, nhưng khi làm về thấy nhà bừa bộn thì ông bố liền trừng mắt quát tháo, con cái mặt mày tái mét, không khí trở nên nặng nề, tưởng như ai oán, bao nhiêu nỗi lòng ngóng trông bờ vai của bố về nhà của con trẻ bỗng chốc như bánh xe xịt lốp, lấm lét nhìn quanh sợ sệt.

Có những người bạn làm chung công ty, trải qua bao nhiêu dự án thành bại, vui buồn có nhau, tưởng như keo sơn, ai dè chỉ vì chút mâu thuẫn nhỏ trong công việc là khởi phát tâm sân, tranh cãi dữ dội, tình bạn bè, đồng nghiệp như con đê vỡ bờ không ngăn nổi cơn sân như dòng nước xô cuồn cuộn, phút chốc tất cả đều tan tành, quay ra coi nhau như kẻ thù.

Có người chỉ vì tranh chấp nửa mét đất mà sẵn sàng đoạt mạng người thân gây nên cảnh tù tội, để lại những đứa con côi cút mất cha, mất mẹ, xã hội thêm nhiều gánh nặng, không khí tang thương bao trùm…

Khi cơn sân bùng khởi thì không khí đang yên vui bỗng chốc trở thành thù địch, không gian trở nên ngột ngạt, trong mắt của người sân thì ai cũng đều là kẻ thù, dù đó là cha mẹ, vợ con, anh em, bạn hữu.

Một người đang sân cũng như tia sét đánh ngang bầu trời, báo hiệu một cơn dông tầm tã, khiến mọi người sợ hãi, muốn tránh xa.

Người đang sân thì chuyện nhỏ hóa chuyện to, chuyện to hóa ra rắc rối lớn, gây không biết bao nhiêu phiền toái cho mình và mọi người.

Nguyên Thanh còn nhớ nhiều câu chuyện trong tu viện, có một người hay sân giận lúc nào cũng nổi sân thô tháo, có hôm tức giận một chuyện gì đó rồi nằm ăn vạ bắt Thầy Thông Lạc phải thực hiện một số yêu sách. Thầy nghe xong không nói gì, đợi một lúc sau, khi nguôi ngoai, Thầy mới lại gần người đó và nghiêm mặt nói: “Sao con khờ vậy con, sân làm gì cho tổn hao năng lượng, khổ thân, mệt trí”, nói xong Thầy đi vào phòng làm việc.

Khi từ trường sân hận phát xuất ra từ hành động thân, khẩu, ý, có thể tương ưng để tái sanh làm những con người hay loài động vật có tâm sân dữ dội như cọp beo, rắn rết, những con thú hung hăng, hoặc từ trường này phát xuất ra không gian làm cho thời tiết bất hòa, khắc nghiệt, nắng gắt, hạn hán, thiên tai ảnh hưởng tới sự sống của con người, làm cho thế gian đã đau khổ lại càng chồng chất lên bao nỗi khổ đau thêm. Vì ai? Vì tâm tham, sân, si của chúng ta!

Tâm sân rất nguy hiểm: “Một đốm lửa sân thiêu cháy cả rừng công đức”, vì thế ta phải tìm mọi cách để xả ly, đoạn diệt, tiêu trừ, làm cho nó tan biến khỏi tâm mình, làm cho nó lụi tàn tắt ngấm để không còn cơ hội thiêu đốt bản thân, kích động gây ra cảnh khổ đau cho mình và mọi người.

Như vậy, do thiếu chánh niệm tĩnh giác và Định Vô Lậu nên ý thức không dừng được nghiệp sân đang chi phối, vì thế muốn đối trị tâm sân thì phải có sức tĩnh giác để bình tĩnh trước ác pháp rồi triển khai Định Vô Lậu và dùng pháp Như Lý Tác Ý đánh bạt niệm sân giúp tâm trở về trạng thái thanh thản, an lạc, vô sự.

Chúng ta thấy rằng, tâm sân có mặt thì chướng ngại pháp có mặt, chướng ngại có mặt thì sự đúng sai, cao thấp, hơn thua có mặt làm ngăn cách giữa con người với con người và mọi vật, sự ngăn cách có mặt thì lòng yêu thương biến mất.

Ngược lại, khi lòng yêu thương có mặt thì chúng ta sẽ không nhìn vấn đề đúng sai phải trái nên tâm sẽ không còn chướng ngại, tâm không còn chướng ngại thì sân hận biến mất.

Vì lòng yêu thương mà dù cách xa hàng ngàn dặm người ta cũng thấy gần nhau, còn thiếu lòng yêu thương thì dù đứng bên cạnh người đó đi chăng nữa ta cũng không muốn nhìn mặt nhau, giống như cách xa ngàn dặm vậy.

Do vậy, lòng yêu thương là phương thuốc đối trị tâm sân hận.

Người còn gia duyên và công việc ràng buộc nhiều thì sẽ thường bận rộn, do vậy khó có thể bố trí được thời gian một mình tu tập Định Chánh Niệm Tĩnh Giác và Định Vô Lậu để khi có trái ý nghịch lòng thì tĩnh giác xả tâm sân hận. Những người này nên tu tập trên hoàn cảnh của mình, luôn nương theo mọi hành động thường ngày mà tu tập, thực hiện phương châm: “Sống là tu, tu là sống”, chứ không phải đợi chờ đến khi rảnh rang mới tu tập.

Người biết ứng dụng phương pháp tu tập theo các hành động sống hàng ngày để không làm khổ mình khổ người là người sống thực tế.

Chúng ta biết rằng, mục đích tu hành của Đạo Phật là sống không làm khổ mình khổ người để đem lại bình an cho mình cho người, cho nên Đức Phật dạy chúng ta tu tập từ tâm, tức là khởi lòng thương yêu sự sống của muôn loài chúng sanh, trong đó có mình và mọi người, nhờ lòng thương yêu mà chúng ta sống không có đau khổ, thì đó chính là tâm vô lậu.

Lòng từ được tu tập và trau dồi đúng cách thì trên mỗi hành động thân, khẩu, ý thể hiện được lòng thương yêu sự sống, có lòng thương yêu thì ác pháp sẽ bị đẩy lui, nên tâm không chướng ngại, tâm không chướng ngại thì tâm sân biến mất, vì thế mà lòng từ đối trị tâm sân.

Ở đâu có lòng từ thì ở đó có đầy đủ tri kiến giải thoát, tri kiến giải thoát có mặt tức là chánh niệm tĩnh giác và Định Vô Lậu có mặt.

Trong hoàn cảnh của chú, để đối trị tâm sân hận thì nên trau dồi tâm từ. Muốn trau dồi tâm từ thì trước hết phải sống đúng 5 tiêu chuẩn đạo đức làm người, lấy tiêu chuẩn đó làm nền tảng của đời sống trước khi ôm pháp tu hành.

Cách thức tu tập trau dồi tâm từ thì phải trên thân hành, khẩu hành, ý hành mà tu tập, sao cho từ ba nơi này thể hiện được lòng yêu thương, tôn trọng sự sống và hạnh phúc của chúng sanh. Ví dụ cụ thể như sau:

˗ Hàng ngày mỗi lần quét nhà thì nhắc tâm: “Ý thức phải quan sát cẩn thận không làm chết chúng sanh tôi biết tôi đang quét nhà”, rồi cẩn thận quan sát chỗ quét sao cho không ảnh hưởng tới những con vật nhỏ như kiến trùng thì mới quét.

Bình thường chúng ta quét nhà mục đích cho sạch, còn bây giờ biết tu tập rồi thì quét nhà sạch nhưng không làm chết chúng sanh, không làm chết chúng sanh thì phải luôn phòng hộ quan sát mọi sự vật xung quanh mình xem có côn trùng, kiến, gián… không? Nếu thấy có côn trùng chúng sanh thì đừng quét, đợi chúng đi hết thì mới quét.

˗ Khi đi thì nhắc tâm: “Phải cẩn thận không dẫm đạp chúng sanh tôi biết tôi đang đi”.

˗ Khi hái rau, hoa qủa thì phải quan sát không làm chết chúng sanh bằng cách nhắc tâm: “Cẩn thận không làm chết các bạn chúng sanh tôi biết tôi hái rau”.

˗ Trước khi đổ nước nóng xả vào bồn rửa chén thì ta nên để cho nước nguội hoặc pha với nước lạnh để giảm nhiệt độ trở về bình thường kẻo làm chết chúng sanh dưới lỗ thoát sàn. Lúc nấu ăn thì nên nhắc tâm: “Cẩn thận không được đổ nước nóng xuống bồn rửa chén kẻo làm chết chúng sanh”.

˗ Khi cất giữ thực phẩm trong tủ lạnh thì nên rửa sạch, để ráo nước rồi cho vào hộp kín để khỏi vi khuẩn sinh sôi gây bệnh cho mình và gia đình, đó là biết cách bảo vệ sức khỏe cho mọi người.

Khi cất thực phẩm thì hãy tác ý: “Mình phải lưu trữ thực phẩm an toàn, hợp vệ sinh để bảo vệ sức khỏe cho gia đình”.

˗ Khi ăn cơm thì nhắc tâm: “Cẩn thận quan sát thức ăn kẻo vô tình nhai nuốt chúng sanh tôi biết tôi đang ăn”.

˗ Khi đốt rác thì phải quan sát xem trong rác có chúng sanh như kiến, gián, mối mọt hay không? Nếu không thì mới đốt, còn có thì ta nên bố thí cho chúng ăn, hoặc để cho chúng đi rồi mới đốt.

Ví dụ: Có người dùng bếp củi để nấu ăn, trước lúc đưa củi vào bếp ta phải quan sát có kiến, có mối… không? Nếu có thì phải chờ cho chúng rời khỏi, hoặc thậm chí những khúc gỗ bị mối ăn ta có thể bố thí cho những con mối này ăn luôn cũng được. Nếu có điều kiện thì nên dùng bếp ga hoặc bếp từ loại tốt, an toàn cho việc nấu ăn để phòng hộ, không tạo nghiệp sát sanh.

˗ Nơi sinh sống và làm việc của mình phải vệ sinh sạch sẽ, tránh để rơi vãi thức ăn thu hút côn trùng kéo đến nhiều, làm ta vô tình hoặc hữu ý dẫm đạp làm chết chúng.

Phải tác ý: “Làm việc phải vệ sinh sạch sẽ kẻo chúng sanh kéo đến làm ta vô tình dẫm đạp lên chúng thì rất tội nghiệp”.

˗ Khi làm việc như bốc hàng, vận chuyển phải quan sát xung quanh xem có những loài vật nhỏ bé không, nếu có thì nên làm tiếng động để chúng rời khỏi trước lúc mình vận chuyển, tránh làm ẩu gây tổn thương mạng sống của những loài vật nhỏ bé.

˗ Khi thi công một công trình thì phải hết sức kỹ lưỡng để tránh xảy ra tai nạn, dụng cụ, vật liệu, điện nước phải để an toàn, gọn gàng, có biển cảnh báo rõ ràng tránh gây nguy hiểm hoặc cản trở cho những người thi công và những người xung quanh.

Thường xuyên tác ý: “Làm bất cứ việc gì phải đặt yếu tố an toàn lên hàng đầu, không được làm ẩu, làm dối ảnh hưởng đến sự sống của mọi người và mọi loài vật”.

Ví dụ 1: Có những người thợ, khi làm nhà thì kéo dây điện bừa bộn, nên trẻ con vô tình dẫm phải gây tai nạn chết người.

Ví dụ 2: Nơi mình thi công không có che chắn cẩn thận, nên đinh ốc rơi vãi làm người khác dẫm đạp bị thương hoặc ai đi qua vô tình bị viên gạch đang xây rơi xuống trúng đầu chảy máu và có thể tử vong.

˗ Khi làm bất cứ một việc gì đều phải quan sát, tính toán kỹ lưỡng, cân nhắc trước sau để tránh rủi ro, sai sót gây khổ đau cho mình và người khác.

Ví dụ 1: Trên báo chí đăng tin, có bà mẹ dắt con đi dạo trong chung cư, rồi ngồi xuống gần một chiếc xe du lịch, ở vị trí khuất tầm nhìn của tài xế, nên bác tài nổ máy cán chết đứa bé trước mắt của người mẹ. Chúng ta chưa nói về bác tài xế, nhưng nếu nói về phía bà mẹ thì người mẹ này thiếu quan sát, dẫn đến để con chơi trong vùng rủi ro (ngoài tầm quan sát của bác tài xế trong xe), đó chính là thiếu chánh niệm tĩnh giác, thiếu lòng từ.

Ví dụ 2: Mình điều hành một dự án, nhưng tính toán chủ quan, nên phát sinh công việc làm chậm tiến độ, dẫn đến bị phạt, nên thu nhập của những người thợ bị giảm, làm cho họ khổ đau, bức xúc. Cho nên, trước khi nhận một dự án, phải suy tính kỹ lưỡng, tránh rủi ro, để đảm bảo thực hiện thành công, đem lại lợi ích cho mọi người. Đó chính là chánh niệm tĩnh giác và biết thương yêu mọi người.

Ví dụ 3: Khi mình có quyền phê duyệt một dự án, mình phải tính kỹ xem có tác động tới môi trường không, có làm chết các loài chúng sanh không, có phá vỡ cảnh quan hay không, có ảnh hưởng xấu tới đời sống người dân xung quanh không… chứ không chỉ chăm chăm vào lợi nhuận.

Vì không cẩn thận chỉ thấy lợi trước mắt (làm theo lòng ham muốn) mà nhiều công trình để lại hậu quả tàn phá môi trường ảnh hưởng đến sự sống của hàng vạn người và hàng triệu sinh vật đến hàng chục, hàng trăm năm mà chưa thể khắc phục nổi.

Ví dụ 4: Khi mình thành lập công ty, nhà máy thì phải tính tới vấn đề chất thải, hóa chất thải ra môi trường phải được xử lý, thanh lọc để không gây ô nhiễm môi trường.

Sự cẩn thận như vậy đó chính là chánh niệm tĩnh giác để không làm khổ mình khổ người, cũng là tu tập tâm từ.

˗ Khi tham gia giao thông thì thường xuyên tác ý: “Phải tập trung quan sát kỹ lưỡng, phản ứng nhanh nhạy để tham gia giao thông an toàn, không gây tai nạn làm khổ mình khổ người”.

˗ Khi cầm nắm dụng cụ lao động hay vật gì cũng phải quan sát cẩn thận, thường nhắc tâm: “Phải lưu ý cẩn thận để không làm tổn hại chúng sanh tôi biết tôi đang cầm”.

˗ Khi ngồi nghỉ ngơi ở đâu thì thường nhắc tâm: “Phải quan sát chỗ ngồi kẻo đè chết các chúng sanh nhỏ bé”.

˗ Khi họp hành hoặc vào làm việc với mọi người thì nhắc nhở: “Phải nói những lời tôn trọng mọi người, không nên làm mọi người mất vui!”.

˗ Khi ngồi chơi với gia đình, bạn bè thì tác ý: “Ta phải nói những lời làm vui lòng mình, vui lòng người”.

˗ Bình thường thì nên tác ý: “Phải biết yêu thương, tôn trọng mọi người, không được ghét ai cả”.

˗ Về gia đình thì nên tác ý: “Gia đình là mái ấm tình thương, ta không nên nổi sân làm cho không khí trong nhà trở nên ngột ngạt, làm khổ mình và mọi người, mà hãy làm vui lòng mọi người!”.

˗ Hoặc nhắc tâm: “Trong sự sống của mình có sự sống của mọi người, mọi loài vật và môi trường sống. Tôn trọng sự sống của mọi người, mọi loài chính là tôn trọng sự sống của chính mình, làm tổn hại đến sự sống của mọi người, mọi loài chính là làm tổn hại đến sự sống của chính mình. Cho nên, ta phải biết yêu thương sự sống của mình, mọi người và mọi loài!”.

˗ Luôn tác ý: “Tâm phải rộng lớn như đất trời, phải biết yêu thương và tha thứ cho mọi người, mọi loài!”

Đó là những câu tác ý cơ bản để trau dồi tâm từ trên thân hành, khẩu hành, ý hành.

Hàng ngày chúng ta làm rất nhiều hành động từ đi, đứng, nằm, ngồi, ăn, nói, làm việc, nghỉ… đều phải tác ý nhắc tâm cẩn thận không làm tổn hại sự sống của mọi người, mọi loài. Nhờ nhắc tâm nên ý thức có sự ý tứ quan sát cẩn thận, kỹ lưỡng trong hành động để không tổn hại đến hạnh phúc của chúng sanh, làm cho lòng yêu thương trong chúng ta lớn dần lên và sức tĩnh giác ngày càng cao. Lòng yêu thương càng lớn mạnh thì tâm sân càng triệt tiêu, tâm sân càng triệt tiêu thì sự chan hòa niềm vui với mọi người mọi loài càng lớn lên, đó chính là nguồn hạnh phúc chân thật trong tâm của mình.

Mỗi ngày thân hành, khẩu hành, ý hành của chúng ta được trau dồi không làm tổn hại đến sự sống của chúng sanh, không muốn làm chúng sanh khổ đau là mỗi lần chúng ta được tích tập lòng từ, nếu chúng ta có vô số hành động như vậy được trau dồi liên tục hàng ngày bằng phương pháp Như Lý Tác Ý thì lòng từ trong chúng ta sẽ viên mãn vô lượng, gọi là từ vô lượng tâm, khi lòng từ viên mãn thì tham, sân, si biến mất, có nghĩa là tâm chúng ta hoàn toàn thanh thản, an lạc, vô sự và hoàn thành con đường tu tập của mình.

Vì thế, Thầy Thông Lạc thường dạy Nguyên Thanh: “Người nào tu tập tâm từ làm cho sung mãn thì có thể nhập tất cả các loại thiền định”.

Ông Phú Lâu Na và em trai ông Cấp Cô Độc là những người nhờ tu tập Từ Vô Lượng Tâm mà chứng đạo.

Cho nên, sự tu tập tâm từ để đối trị tâm sân thì rất tự nhiên, nhẹ nhàng, không có ức chế và có thể thực hiện mọi lúc, mọi nơi. Khi làm bất cứ việc gì ta cũng có pháp để tu tập, đó chính là nhắc tâm điều chỉnh hành vi thân, khẩu, ý của mình không làm tổn hại đến sự sống của các loài chúng sanh.

Tu tập tâm từ rất có lợi ích lớn vì lòng từ luôn đối trị tâm sân, làm tăng sức tĩnh giác nên sẽ giúp chúng ta sống không làm khổ mình khổ người. Mặt khác nhờ tu tập lòng từ (Đức Hiếu Sinh) thì từ trường của từ tâm sẽ làm cho chúng sanh yêu mến, thân thể chúng ta không có bệnh hoặc chuyển hóa bệnh từ nặng thành nhẹ.

Người nào giữ gìn Đức Hiếu Sinh trong một thời gian dài thì tự trong cơ thể họ sẽ sản sinh ra một chất đề kháng tự nhiên để giúp người đó chống lại các bệnh tật rất hữu hiệu.

Do mình làm việc gì cũng cân nhắc không làm tổn hại đến sự sống và hạnh phúc của chúng sanh, từ đó sẽ hình thành nên tính cách cẩn thận, kỹ lưỡng, dè dặt, kín đáo, đó là những năng lực của chánh niệm tĩnh giác. Những đức tính này, Thầy Thông Lạc gọi là những hạnh lực của người chân tu.

Thêm nữa, chú nên sắp xếp thời khóa tu tập hàng ngày để xả ly lòng sân giận bằng cách mỗi buổi sáng, chú dành 5-10 phút trong phòng riêng hoặc ngoài sân, trước lúc mọi người thức dậy, vừa đi kinh hành tập thể dục vừa kết hợp với Định Vô Lậu lìa bỏ tâm sân như sau:

“Quán ly sân tôi biết tôi đi kinh hành”, rồi đếm “một”, bước chân trái, đếm “hai”, bước chân phải… khoảng 10 – 20 bước thì dừng lại tác ý: “Quán ly sân tôi biết tôi đi kinh hành”.

Bình thường thì thỉnh thoảng tác ý: “Tâm như cục đất hãy lìa bỏ tâm sân thật sạch!”.

Tu tập chuyên cần, vừa trau dồi lòng từ trong những hành động hàng ngày và kết hợp quán ly sân với đi kinh hành chánh niệm tĩnh giác buổi sáng như vậy thì khoảng từ 3 đến 6 tháng là chú sẽ thấy kết quả, càng tập tâm sân sẽ càng giảm.

Việc tu tập để xả bỏ tâm sân hận rất tự nhiên, tập lúc nào cũng được, thường xuyên, hàng ngày như cơm ăn, nước uống, hít thở vậy.

Trong thư chú có hỏi về Chánh Niệm Tĩnh Giác và Chánh Niệm Tỉnh Thức, Nguyên Thanh xin giải thích sơ bộ như sau: Có những cụm danh từ mà Thầy Thông Lạc thường nhắc đó là: “Tỉnh thức”, “Tĩnh giác”, “Chánh niệm”, “Tĩnh giác Chánh niệm”, “Tỉnh thức Chánh niệm”, “Định tỉnh”.

˗ Tỉnh thức là sự ý tứ trong các hành động thân hành của mình. Ví dụ: Tôi đi tôi biết tôi đi là tập tỉnh thức. Tỉnh thức là gom tâm vào một hành động của thân. Nói đến tỉnh thức là nói đến sự tập trung tâm vào một đối tượng nào đó.

Người mới tỉnh thức là vẫn còn tham, sân, si.

Có những trẻ em tự kỷ nhưng có khả năng tập trung khi làm việc thì chỉ mới là tỉnh thức thôi.

Có những người làm việc rất chuyên chú, thì đó là sức tập trung, là sức tỉnh thức.

˗ Tĩnh giác có nghĩa là tỉnh thức trên ba hành động thân, khẩu, ý và giác ngộ cả hoàn cảnh bên ngoài. Tĩnh giác là biết mình, biết người và ngoại cảnh. Chánh niệm là niệm thiện không làm khổ mình khổ người. Cho nên có tĩnh giác thì mới có chánh niệm, nên gọi là “Tĩnh Giác Chánh Niệm”, còn “Chánh Niệm Tĩnh Giác” là đọc theo âm tiếng Hán.

Trong tĩnh giác có bình tĩnh và giác ngộ. Bình tĩnh là tâm không dao động trong một khoảng thời gian nhất định; giác ngộ có nghĩa là phân biệt, quán xét, suy xét biết rõ pháp nào thiện, pháp nào ác.

Cho nên “tĩnh giác” có thể diễn đạt lại là sự bình tĩnh giác ngộ tâm mình và hoàn cảnh xung quanh.

Tâm khởi lên niệm tham thì biết tôi đang tham, tâm khởi lên niệm sân thì biết tôi đang sân, tâm khởi lên niệm si thì biết tôi đang si, đó chính là chánh niệm tĩnh giác.

Ví dụ 1: Đi cẩn thận không dẫm đạp chúng sanh là tĩnh giác chánh niệm. Trong đó quan sát thấy chúng sanh dưới chân mình, biết rằng nếu dẫm đạp lên chúng sanh sẽ tạo nghiệp ác và kiểm soát được bước chân là tĩnh giác; tâm điều chỉnh thân hành bước đi không dẫm đạp chúng sanh là chánh niệm.

Ví dụ 2: Mình đang làm tập trung công việc gọt hoa quả (thân hành) thì có một niệm khởi (ý hành) lên là: “Rủ bạn bè đi uống cà phê” thì mình vẫn biết niệm khởi trong ý lên rõ ràng nhưng không mất niệm trong công việc hiện tại (thân hành đang gọt hoa quả), thì đó là chánh niệm tĩnh giác.

Ví dụ 3: Đang làm việc có người tới gắt gỏng, quát mắng mình, tâm mình có khởi ý chướng ngại, nhưng cũng biết đây là nhân quả thì đó là chánh niệm tĩnh giác.

Ví dụ 4: Mình là người hiểu biết Phật pháp đang nói chuyện với bạn bè, đến đoạn nói về ăn chay thì người bạn nói có vẻ bảo thủ hơn thua: “Ăn chay mặn gì cũng được, miễn là có sức khỏe”, thì mình giác ngộ ra rằng người bạn này không hiểu gì về Phật pháp, lại còn đang có thái độ hơn thua, nếu góp ý sẽ gây ra tranh cãi làm khổ nhau, nên mình chủ động lái câu chuyện sang hướng khác không tranh cãi, ví dụ mình nói bâng quơ: “Coi vậy chứ cũng có nhiều người ăn thực vật mà có sức khỏe”, rồi hướng câu chuyện sang chủ đề khác, và tìm cách kết thúc câu chuyện. Đó chính là chánh niệm tĩnh giác.

Ví dụ 5: Mình biết chánh pháp và muốn tạo duyên cho một người bạn thân cũng biết chánh pháp như mình, mình liền gợi ý: “Bạn có muốn đọc sách không, tớ có cuốn sách này hay lắm”, rồi đưa cuốn Lòng Yêu Thương ra để ở bàn, người bạn thấy vậy liền nói: “Sách vở gì, tớ đợt này đang bù đầu công việc”. Như vậy, mình giác ngộ rằng hiện tại chưa phải là duyên để người này tìm hiểu Phật pháp, do vậy mình nói: “Ừ đúng đấy, bạn còn nhiều dự án bận rộn, nhớ giữ gìn sức khỏe nhé!”, rồi nói sang chuyện khác, ví dụ như chuyện thời tiết, sức khỏe, công việc của bạn ấy… mà không giữ ý định tặng sách nữa. Đó chính là chánh niệm tĩnh giác.

Ví dụ 6: Có một vị tu sĩ xuất gia tu hành, thực hiện hạnh khất thực, đến một tỉnh nọ, biết rằng chính quyền họ không cho phép những tu sĩ khất thực vì thật giả lẫn lộn, mà vị tu sĩ đó vẫn cố thực hiện cho bằng được hạnh khất thực thì đó là thiếu chánh niệm tĩnh giác, vì tu sĩ này không giác ngộ được hoàn cảnh không thuận lợi cho việc thực hiện hạnh khất thực, nếu mình vẫn làm thì sẽ gây khó khăn cho chính quyền và người dân nhìn vào họ khởi tâm nghi ngờ: “Không biết sư giả hay thật đây?”, đôi khi còn phỉ báng người tu vì chính quyền đã từng cảnh báo có nhiều trường hợp sư giả.

Trong trường hợp này thì nên đi nơi khác có môi trường thuận lợi hơn, hoặc đến các trú xứ có pháp nhân rõ ràng xin tu tập rồi lúc đó thực hiện hạnh đi khất thực.

Ví dụ 7: Có những người bạn đạo họ đọc sách chánh pháp, nhưng trên Facebook cứ bình luận chê người này người khác, bất mãn xã hội, tranh luận hơn thua, bỉ thử… thì mình nhận thức là họ không biết áp dụng tu tập, nên tâm đời bộc lộ qua những bài viết và bình luận, mượn kiến thức viết trong sách để thỏa mãn tâm hơn thua với người khác. Biết vậy nên mình dè dặt, cẩn thận trong giao tiếp với họ, vì không chừng chính mình là đối tượng để họ tuôn trào tâm bỉ thử cũng nên. Hành động đó chính là chánh niệm tĩnh giác.

Ví dụ 8: Khi mình biết chánh pháp, nhìn thấy những hành động xấu của những người xung quanh trong tâm khởi lên niệm “chán nản”, mình biết rất rõ niệm này là ác pháp thì đó là chánh niệm tĩnh giác. Niệm “chán nản” là niệm ác sẽ làm khổ mình nên ta phải tìm cách xả niệm này đi bằng tri kiến Định Vô Lậu để tâm luôn sống trong niệm thanh thản, an lạc, vô sự, đó là chánh niệm, là giải thoát.

Nếu không có Định Chánh Niệm Tĩnh Giác thì không thể xả tâm được, cũng như nếu không phân biệt đâu là trộm cướp, đâu là dân thường thì xã hội khó bình an.

Có chánh niệm tĩnh giác thì mới dùng Định Vô Lậu phân tích mổ xẻ thấu suốt ác pháp làm khổ mình khổ người để xả ra thì tâm mới thanh thản, an vui được. Cũng như phải bắt được trộm cướp thì mới lập tòa án xét xử, tống giam, thì xã hội mới trở nên bình yên được.

Người có chánh niệm tĩnh giác giống như hồ nước trong xanh, thấy hết tôm cá ở trong đó.

Người có chánh niệm tĩnh giác là đã có phần ly dục, gạn lọc tâm trong đó nhưng vẫn chưa hết tham, sân, si.

Đức Phật và Thầy Thông Lạc thường nhắc chúng ta: “Phải biết sợ hãi trong những lỗi nhỏ nhặt”, nếu chúng ta không rèn luyện Định Chánh Niệm Tĩnh Giác thì không bao giờ có thể thực hiện được lời dạy trên, cho nên có thể diễn giải lại điều này như sau: “Nhờ có chánh niệm tĩnh giác thì chúng ta mới sợ hãi trong các lỗi nhỏ nhặt”.

Chánh niệm tĩnh giác là để xả tâm tham, sân, si, nên tâm sẽ quay vào biết trên thân hành một cách tự nhiên, gọi là tâm định trên thân. Trạng thái tâm định trên thân đó gọi là tâm “Định tỉnh”. Tâm định tỉnh còn gọi là tỉnh thức chánh niệm, tức là có sự an trú trên thân hành của mình.

Nói đến Tỉnh Thức Chánh Niệm là nói đến sự tỉnh táo tập trung vào một đối tượng duy nhất để an trú tâm. Thầy Thông Lạc dạy: nếu kéo dài được trạng thái này thì có thể rèn luyện Tứ Thần Túc được.

Chánh niệm tĩnh giác rất quan trọng trong giai đoạn ngăn ác diệt ác trên Tứ Chánh Cần, nếu không có Định Chánh Niệm Tĩnh Giác thì Định Vô Lậu không phát huy được tác dụng xả tâm.

Tâm định tỉnh hay tỉnh thức chánh niệm chính là tâm ở giai đoạn tu tập Tứ Niệm Xứ.

Như vậy, khi mới vào tu tập phần lớn tâm của chúng ta còn phóng dật, phân tán nhiều, nên cần phải tập tỉnh thức trên thân hành để gom tâm, tăng sức tập trung. Khi tâm có tỉnh thức rồi thì sẽ bình tĩnh biết từng niệm khởi thiện hay ác trên thân hành, khẩu hành, ý hành và hoàn cảnh xung quanh, đó là chánh niệm tĩnh giác, sau đó dùng tri kiến Định Vô Lậu phân tích mổ xẻ từng tâm niệm để xả niệm ác thì tâm chỉ còn niệm thiện không làm khổ mình khổ người, không làm khổ mình khổ người là chánh niệm. Khi sống một mình thì chánh niệm là tâm thanh thản, an lạc, vô sự, kéo dài trạng thái thanh thản, an lạc, vô sự thì tâm sẽ định tỉnh trên thân hành, tức là an trú trên thân hành, đó chính là chánh niệm tỉnh thức.

Nguyên Thanh chỉ giải thích sơ bộ như vậy, chú cố gắng siêng năng trau dồi từ tâm trong những hành động hàng ngày thì chú sẽ đối trị được tâm sân và có sức tĩnh giác cao, đến lúc đó chú sẽ chứng nghiệm được sức tĩnh giác trong tâm của chú rõ ràng hơn. Có sức tĩnh giác thì chúng ta mới xả các chướng ngại pháp trong tâm mình, giúp ta sống đúng đạo đức nhân bản – nhân quả, không làm khổ mình khổ người.

Tóm lại, lòng từ như cơn gió mát, thổi đến đâu sẽ xua tan đi cái nóng bức, ngột ngạt tỏa ra từ tâm sân hận đến đó. Cho nên, chúng ta cần phải cố gắng trau dồi lòng từ trong các hành động sống hàng ngày để lòng từ là mình, mình là lòng từ, thì tâm ta sẽ không còn chướng ngại và dung thông với vạn hữu trong tình thương yêu và tha thứ. Nếu thực hành được như vậy, cuộc sống của chúng ta ngày càng trở nên vui tươi, hạnh phúc và bình an.

TM. Ban Biên Tập

Sc. Nguyên Thanh

– P/s: Tham khảo thêm bài viết: “Xả tâm sân hận”:

Đọc thêm

Leave a Comment

  • Tri Kiến Giải Thoát

    5 tháng trước

    "Tóm lại, lòng từ như cơn gió mát, thổi đến đâu sẽ xua tan đi cái nóng bức, ngột ngạt tỏa ra từ tâm sân hận đến đó. Cho nên, chúng ta cần phải cố gắng trau dồi lòng từ trong các hành động sống hàng ngày để lòng từ là mình, mình là lòng từ, thì tâm ta sẽ không còn chướng ngại và dung thông với vạn hữu trong tình thương yêu và tha thứ. Nếu thực hành được như vậy, cuộc sống của chúng ta ngày càng trở nên vui tươi, hạnh phúc và bình an." (Sc. Nguyên Thanh)

    • Bỏ chọn
    • Bỏ chọn
    7

    Các tương tác cảm xúc

    Tất cả
    7
    Bạn
    • 1 người khác thấy bổ ích
    • 1 người khác thấy cảm hứng
    • 2 người khác thấy xúc động
    Phản hồi
    Báo bình luận vi phạm

    @Tri Kiến Giải Thoát

  • Tri Kiến Giải Thoát

    5 tháng trước

    "Thầy Thông Lạc thường dạy Nguyên Thanh: “Người nào tu tập tâm từ làm cho sung mãn thì có thể nhập tất cả các loại thiền định”." (Sc. Nguyên Thanh)

    • Bỏ chọn
    • Bỏ chọn
    6

    Các tương tác cảm xúc

    Tất cả
    6
    Bạn
    • 1 người khác thấy bổ ích
    • 1 người khác thấy cảm hứng
    • 1 người khác thấy xúc động
    Phản hồi
    Báo bình luận vi phạm

    @Tri Kiến Giải Thoát

  • Tri Kiến Giải Thoát

    5 tháng trước

    "Lòng từ được tu tập và trau dồi đúng cách thì trên mỗi hành động thân, khẩu, ý thể hiện được lòng thương yêu sự sống, có lòng thương yêu thì ác pháp sẽ bị đẩy lui, nên tâm không chướng ngại, tâm không chướng ngại thì tâm sân biến mất, vì thế mà lòng từ đối trị tâm sân.

    Ở đâu có lòng từ thì ở đó có đầy đủ tri kiến giải thoát, tri kiến giải thoát có mặt tức là chánh niệm tĩnh giác và Định Vô Lậu có mặt." (Sc. Nguyên Thanh)

    • Bỏ chọn
    • Bỏ chọn
    7

    Các tương tác cảm xúc

    Tất cả
    7
    Bạn
    • 1 người khác thấy bổ ích
    • 1 người khác thấy cảm hứng
    • 2 người khác thấy xúc động
    Phản hồi
    Báo bình luận vi phạm

    @Tri Kiến Giải Thoát

  • Tri Kiến Giải Thoát

    5 tháng trước

    "Chúng ta thấy rằng, tâm sân có mặt thì chướng ngại pháp có mặt, chướng ngại có mặt thì sự đúng sai, cao thấp, hơn thua có mặt làm ngăn cách giữa con người với con người và mọi vật, sự ngăn cách có mặt thì lòng yêu thương biến mất.

    Ngược lại, khi lòng yêu thương có mặt thì chúng ta sẽ không nhìn vấn đề đúng sai phải trái nên tâm sẽ không còn chướng ngại, tâm không còn chướng ngại thì sân hận biến mất.

    Vì lòng yêu thương mà dù cách xa hàng ngàn dặm người ta cũng thấy gần nhau, còn thiếu lòng yêu thương thì dù đứng bên cạnh người đó đi chăng nữa ta cũng không muốn nhìn mặt nhau, giống như cách xa ngàn dặm vậy.

    Do vậy, lòng yêu thương là phương thuốc đối trị tâm sân hận." (Sc. Nguyên Thanh)

    • Bỏ chọn
    • Bỏ chọn
    6

    Các tương tác cảm xúc

    Tất cả
    6
    Bạn
    • 1 người khác thấy bổ ích
    • 1 người khác thấy cảm hứng
    • 1 người khác thấy xúc động
    Phản hồi
    Báo bình luận vi phạm

    @Tri Kiến Giải Thoát

  • Tri Kiến Giải Thoát

    5 tháng trước

    "Tâm sân rất nguy hiểm: “Một đốm lửa sân thiêu cháy cả rừng công đức”, vì thế ta phải tìm mọi cách để xả ly, đoạn diệt, tiêu trừ, làm cho nó tan biến khỏi tâm mình, làm cho nó lụi tàn tắt ngấm để không còn cơ hội thiêu đốt bản thân, kích động gây ra cảnh khổ đau cho mình và mọi người." (Sc. Nguyên Thanh)

    • Bỏ chọn
    • Bỏ chọn
    6

    Các tương tác cảm xúc

    Tất cả
    6
    Bạn
    • 1 người khác thấy bổ ích
    • 1 người khác thấy cảm hứng
    • 1 người khác thấy xúc động
    Phản hồi
    Báo bình luận vi phạm

    @Tri Kiến Giải Thoát

  • Tri Kiến Giải Thoát

    5 tháng trước

    "Khi cơn sân bùng khởi thì không khí đang yên vui bỗng chốc trở thành thù địch, không gian trở nên ngột ngạt, trong mắt của người sân thì ai cũng đều là kẻ thù, dù đó là cha mẹ, vợ con, anh em, bạn hữu.

    Một người đang sân cũng như tia sét đánh ngang bầu trời, báo hiệu một cơn dông tầm tã, khiến mọi người sợ hãi, muốn tránh xa.

    Người đang sân thì chuyện nhỏ hóa chuyện to, chuyện to hóa ra rắc rối lớn, gây không biết bao nhiêu phiền toái cho mình và mọi người." (Sc. Nguyên Thanh)

    • Bỏ chọn
    • Bỏ chọn
    6

    Các tương tác cảm xúc

    Tất cả
    6
    Bạn
    • 1 người khác thấy bổ ích
    • 1 người khác thấy cảm hứng
    • 1 người khác thấy xúc động
    Phản hồi
    Báo bình luận vi phạm

    @Tri Kiến Giải Thoát

Đọc thêm
Tư liệu tham khảo
Xem thêm
Chia sẻ
Ngày đăng: 8 Tháng Bảy, 2024, 22:28
Bài viết liên quan
Dục là gì?

Nguyên Thanh

Tóm lại, khi sáu căn tiếp xúc với sáu trần thì sinh ra các cảm thọ, các cảm thọ sinh ra dục, từ dục con người mới sinh ra dính mắc các pháp trần, do dính mắc các pháp trần nên mới sinh ra tâm tham, sân, si, tức là dục tham, dục sân, dục si để tạo nghiệp tham, sân, si khiến con người phải chịu nhiều ưu bi, sầu khổ, bệnh, chết. Cho nên, phải tu tập theo lộ trình Bát Chánh Đạo để ly dục ly ác pháp, tức là giữ tâm bất động trước ác pháp và cảm thọ, thì tâm sẽ được giải thoát khổ đau.

Hạnh nghiệp nhân quả

Nguyên Thanh

Tóm lại, muốn thấy được gốc rễ cần phải nhìn xuyên qua cành lá, muốn hiểu được bản chất của vấn đề thì phải nhìn xuyên qua các hiện tượng. Con người trên thế gian này hạnh phúc hay khổ đau, bệnh tật hay khỏe mạnh đều do hạnh nghiệp nhân quả mà ra. Vì vậy, hãy tự mình thắp lên ngọn đuốc đạo đức nhân quả, sống không làm khổ mình khổ người, mới có thể chuyển đổi được nghiệp khổ thành cuộc sống hạnh phúc, an vui, giải thoát.

Pháp tu cho người già

Nguyên Thanh

Tóm lại, pháp tu của người già là ngồi chơi xả tâm, tức là tu Tứ Niệm Xứ trên Tứ Niệm Xứ. Khi có chướng ngại nào xảy ra trên bốn chỗ thân, thọ, tâm, pháp, thì dùng pháp Như Lý Tác Ý đuổi đi cho thật sạch để bảo vệ chân lý thanh thản, an lạc, vô sự. Cứ siêng năng tu tập đến khi tâm đủ nội lực bất động trước cận tử nghiệp thì không còn tái sanh luân hồi.

Chánh niệm tĩnh giác để xả tâm

Nguyên Thanh

Tóm lại, hàng ngày trong mọi công việc chúng ta cần nương theo thân hành để tập Chánh Niệm Tĩnh Giác, nhờ sức tĩnh giác này mà tâm bình tĩnh dùng tri kiến đạo đức nhân bản – nhân quả điều khiển hành động thân, khẩu, ý không làm khổ mình khổ người, đó chính là “sống là tu, tu là sống” để đem lại sự hạnh phúc, an vui cho mình và mọi người.

Tầm tứ

Nguyên Thanh

Tóm lại, tầm là tư duy suy nghĩ, tứ là tác ý. Tầm, tứ thuộc về ý thức của con người, là công cụ quan trọng nhất để tu hành, cho nên chúng ta không diệt tầm tứ, mà sử dụng tầm tứ để dẫn tâm vào đạo bằng cách triển khai tri kiến phân biệt cho thật rõ pháp nào là ác, pháp nào là thiện, rồi dùng pháp Như Lý Tác Ý đoạn dứt pháp ác, an trú tâm trong pháp thiện, xây dựng cho mình cuộc sống hạnh phúc, an vui, giải thoát.

Làm chủ lời nói

Nguyên Thanh

Tóm lại, trong giao tiếp với mọi người thì phải chánh niệm tĩnh giác quán xét cả nội tâm lẫn ngoại cảnh, tức là biết toàn diện, biết toàn diện là nhìn đời bằng đôi mắt nhân quả để ứng xử với nhau trên tinh thần không làm khổ mình khổ người, thì sẽ khắc phục được vấn đề chen ngang và áp đặt ý kiến của mình lên người khác, đó là làm chủ lời nói.

Thọ Bát Quan Trai

Nguyên Thanh

Như vậy, đối với một người còn sống giao tiếp thì giữ 5 tiêu chuẩn đạo đức làm người, nhìn đời bằng đôi mắt nhân quả, thỉnh thoảng thọ Bát Quan Trai để thực hiện đời sống không làm khổ mình khổ người, sống không làm khổ mình khổ người là giới luật, mà giới luật chính là nền tảng đạo đức, là cội gốc của thiền định, là bông trái của trí tuệ, do vậy đời sống đạo đức rất quan trọng đối với người tu hành giải thoát.

Làm chủ cái ngủ

Nguyên Thanh

Tóm lại, tu đúng là làm chủ cái ngủ, làm chủ cái ngủ là tu. Muốn làm chủ cái ngủ thì phải giữ gìn giới luật nghiêm chỉnh, giữ gìn giới luật nghiêm chỉnh là triển khai tri kiến giải thoát, triển khai tri kiến giải thoát thì phải thông suốt Định Vô Lậu và rèn luyện chánh niệm tĩnh giác, đó là những vũ khí chính để xả tâm tham, sân, si, quét sạch hôn trầm, nhường chỗ cho tâm thanh thản, an lạc, giải thoát.

Bố thí chúng sanh

Nguyên Thanh

Tóm lại, sự bố thí, làm từ thiện phải thực hiện đúng lộ trình nhân quả: nếu chúng sanh sống thiện mà gặp khó khăn thì chúng ta nên giúp đỡ để họ tiếp tục sống thiện; còn nếu chúng sanh sống ác mà gặp khó khăn thì ta nên để họ tự trả nhân quả; nếu chúng ta giúp đỡ chúng sanh mà tạo duyên phát sinh ác pháp cản trở tức là chúng sanh chưa đủ duyên phước để nhận sự giúp đỡ này, thì chúng ta nên dừng lại, hoặc là khuyên nhủ họ nên sống thiện bồi đắp phước đức để chuyển đổi nhân quả.

Pháp sai chứ người không sai

Nguyên Thanh

Tóm lại, pháp sai chứ người không sai. Vì pháp sai nên làm cho con người bị ức chế tâm trong hình thức giới luật, tiến lên thì không được mà lùi xuống thì phạm giới, nên kiểu gì cũng bị khổ đau. Còn khi gặp đúng chánh pháp, giúp chúng ta biết cách triển khai tri kiến xả tâm, ly dục ly ác pháp, hóa giải mọi chướng ngại trong lòng để tâm trở về trạng thái thanh thản, an lạc, vô sự, vượt qua nhân quả, vững bước tiến lên trên con đường giải thoát.

Tái sanh

Nguyên Thanh

Tóm lại, nghiệp tương ưng tái sanh luân hồi, tạo ra sự sống mới, khổ đau hay hạnh phúc đều do hạnh nghiệp mà ra. Nghiệp do tâm tạo, cho nên chúng ta phải biết thương tâm nghiệp lực của mình, thương tâm nghiệp lực của mình thì phải biết triển khai tri kiến nhìn đời bằng đôi mắt nhân quả để sống không làm khổ mình khổ người thì sẽ tiến hóa trên con đường thiện, giải thoát tâm mình ra khỏi mọi sự khổ đau và chấm dứt tái sanh luân hồi.

Sống tích cực

Nguyên Thanh

Tóm lại, càng siêng năng quét nhà thì nhà càng sạch, càng siêng năng xả tâm thì tâm càng sáng. Muốn tâm thanh tịnh thì phải trực tiếp trong mọi cảnh phản tỉnh tâm mình, luôn ngăn ác diệt ác pháp để tâm không còn chướng ngại, nên tâm dung thông với vạn hữu trong tình thương yêu và tha thứ, đó chính là hạnh phúc chân thật của cuộc đời.

Hành trang cho con

Nguyên Thanh

Tóm lại, bậc làm cha mẹ hãy đứng trên lập trường đạo đức nhân quả để nuôi dạy các con của mình biết ăn chay vì đức hiếu sinh theo tinh thần 5 tiêu chuẩn đạo đức làm người, biết thương yêu chia sẻ sự sống với mọi người, biết trau dồi lòng từ để rèn luyện sức tĩnh giác, biết giữ gìn vệ sinh môi trường sống và hướng theo chánh nghiệp để xây dựng cho mình một cuộc sống hạnh phúc, bình an, no ấm.

Lòng yêu thương đúng lộ trình nhân quả

Nguyên Thanh

Tóm lại, lòng yêu thương phải có trí tuệ nhân quả soi sáng thì mới gọi là lòng yêu thương đúng chỗ, cho nên Trưởng lão Thích Thông Lạc dạy chúng ta: đạo đức nhân bản – nhân quả, sống không làm khổ mình khổ người và khổ chúng sanh, đó là phát triển lòng thương yêu đúng lộ trình nhân quả.

Nuôi dưỡng tâm hồn giải thoát

Nguyên Thanh

Tóm lại, chị hãy lấy tình thương của người mẹ để nuôi dưỡng tâm hồn giải thoát của các con, cùng nhau thắp sáng lên ngọn đèn đạo đức nhân bản – nhân quả, sống không làm khổ mình khổ người để bước đi vững chắc trên đường về xứ Phật.

Đăng ký
Đăng nhập với tên người dùng và mật khẩu
Khôi phục mật khẩu
Vui lòng nhập email đã đăng ký tài khoản, chúng tôi sẽ gửi email đổi mật khẩu đến hộp thư của bạn
Đăng nhập trang web
Khôi phục mật khẩu
Cách khác để đăng nhập
Đăng ký
Chia sẻ

Đã copy liên kết vào bộ nhớ tạm