Xả tâm sân hận

Nguyên Thanh

15 Tháng Tám, 2019

  • Bỏ chọn
  • Bỏ chọn
17

Các tương tác cảm xúc

Tất cả
17
Bạn
  • 4 người khác thấy bổ ích
  • 4 người khác thấy cảm hứng
  • 6 người khác thấy xúc động
Chuyển sang nghe podcast

Nội dung mô tả

Tóm lại, để đối trị tâm sân hận thì hãy trau dồi lòng yêu thương và nhìn đời bằng đôi mắt nhân quả, không thấy đúng sai, phải trái. Lòng yêu thương như ánh mặt trời, soi rọi tới đâu thì màn đêm u tối của tâm sân hận sẽ tan biến đến đó, nhường chỗ cho tâm hồn thanh thản sống chan hòa với vạn vật trong hạnh phúc, an vui và chính lòng yêu thương sẽ chắp cánh cho chúng ta vươn tới sự giải thoát rốt ráo hoàn toàn.

– Nguyên Thanh

Ngày 15 tháng 8 năm 2019

XẢ TÂM SÂN HẬN

Phật tử D.D thưa hỏi

Hỏi: Nam mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật! Nam mô Trưởng lão Thích Thông Lạc! Chúng tôi rất cảm ơn BBT và sư cô đã chia sẻ pháp bảo. Hôm nay tôi lại muốn thưa hỏi BBT và sư cô cách tu xả tâm lòng sân hận. Xin thành kính tri ân BBT và sư cô, tôi chúc BBT và sư cô thật nhiều sức khỏe để dẫn dắt những người con Phật đi đúng đường lối của Phật Thích Ca Mâu Ni và Trưởng lão Thích Thông Lạc.

Đáp: Kính gửi cô D.D!

Để xả tâm sân hận thì trước hết phải hiểu được bản chất của tâm sân là gì?

Sân hận là sự tức tối, buồn bực, giận dữ, khúc mắc, ấm ức làm cho tâm đau khổ.

Tâm sân thuộc về tham, sân, si là ba phiền não gốc của con người, từ đó sinh ra muôn vàn đau khổ cho mọi chúng sanh.

Tham là lòng tham lam đưa đến sự khổ đau.

Sân là sự chướng ngại đưa đến sự khổ đau.

Si là do sự không hiểu biết đưa đến khổ đau.

Tham, sân, si còn gọi là dục lậu, hữu lậu, vô minh lậu theo tiếng Hán.

Sân hận là do dính mắc chấp đắm đối với các pháp bên ngoài hoặc bên trong thân làm cho tâm chướng ngại.

Người hay sân là người hay cố chấp, ai nói trái ý là họ có thể nổi giận liền, thậm chí là nổi giận với chính bản thân họ.

Người sân giận là người luôn nhìn mọi sự việc, hiện tượng theo thiên kiến, luôn thấy đúng sai, phải trái mà không thấy được nhân quả.

Người sân giận là người có tính hơn thua, so đo với người khác.

Cái gốc của sân hận là do nhận thức sai lầm, gọi là vô minh.

Ví dụ 1: Khi một người chửi mình là trâu, chó thì mình chấp vào lời nói đó, tưởng mình là trâu, chó thật nên mới tức tối, tìm cách trả thù, gây bao nhiêu sự khổ đau cho mình cho người.

Ví dụ 2: Khi về nhà thấy rác bừa bộn, con cái đang chơi game không chịu dọn dẹp nên mình nổi giận la mắng chúng một trận cho hả, đó là vì thấy chướng mắt nên nổi sân.

Ví dụ 3: Thấy báo chí đưa tin một việc oan sai hay tham nhũng, lãng phí… ngoài xã hội thì mình thấy phẫn nộ vì mình nghĩ làm sao họ có thể làm như vậy được, làm như vậy là sai… đó cũng là tâm sân.

Ví dụ 4: Thấy bạn của mình đang nói xấu một người nào đó, mặc dù mình chưa bao giờ biết mặt người đó là ai, chưa tiếp xúc lần nào, chỉ mới nghe thấy tên thôi, không cần biết vấn đề thực hư thế nào mà vội a dua theo với bạn ghét người đó thì gọi là “thương vay ghét mướn”, cũng là tâm sân.

Ví dụ 5: Đi trên đường vừa bị kẹt xe vừa lúc trời đang nóng, mọi người bấm còi inh ỏi nên trong người thấy bức xúc, sinh ra bực bội, đó là tâm sân.

Ví dụ 6: Chiếc quạt trong gia đình bị hỏng, sửa mãi không xong nên sanh ra bực tức, là tâm sân.

Ví dụ 7: Thấy nhân viên, cấp dưới hay con cái làm gì không vừa lòng là quát tháo, giận dữ thì đó là tâm sân.

Ví dụ 8: Làm ăn đang cần vốn, vay mãi không được nên sanh ra chán nản, oán trách mọi người, đó là tâm sân.

Ví dụ 9: Có người sinh ra trong gia đình nghèo, khó khăn, nên đầu óc nghĩ quẩn oán trách cha mẹ, hoàn cảnh, sự trách móc đó là tâm sân.

Ví dụ 10: Thân mang bệnh đau, chạy chữa mãi không khỏi, thấy thân này là chướng ngại nên sanh ra cáu gắt, thậm chí có người còn muốn tự tử chết, đó là tâm sân.

Ví dụ 11: Khi quán thân bất tịnh, thấy thân này đúng là hôi thối, nhơ nhuốc, bất tịnh vì thế thấy chán bản thân, thấy thân là chướng ngại, nên có vị tỳ kheo thời Đức Phật mới tự tử, đó cũng chính là tâm sân (vì quán thân bất tịnh là đối trị tâm sắc dục, chứ không phải để chán ghét bản thân).

Ví dụ 12: Khi gặp được chánh pháp của Trưởng lão Thích Thông Lạc, thay vì áp dụng để tu tập thì lấy đó làm kiến thức để đi tranh luận hơn thua với mọi người, thấy các hệ phái khác là sai, chê mọi người, coi thường những người chưa biết đạo, coi như mình ở cõi trên, nhìn đâu cũng thấy cái sai của thiên hạ, thì đó chính là tâm sân và ngã mạn.

Ví dụ 13: Người hay nhìn lỗi người khác soi mói chê bai, vạch lá tìm sâu là tâm sân.

Ví dụ 14: Ngồi trong thất tu nhìn sang thất bên cạnh thấy người khác đang ngủ gục thì trong tâm khởi lên: “Giờ này mà còn ngủ, tu mà lười biếng không chịu đi kinh hành”, tức là thấy chướng mắt, đó là tâm sân.

Ví dụ 15: Khi đang tu, tâm sanh vọng tưởng nhớ về những chuyện cũ, người cũ thấy sao mà mình bị đối xử bất công, mình biết chánh pháp sao mà người nhà mình không ăn chay, không chịu tu… đó là chướng ngại pháp, là tâm sân.

Cho nên, bản chất của tâm sân là do chướng ngại đối với các pháp, bao gồm những sự vật, hiện tượng bên ngoài và chính bản thân, tâm niệm bên trong của mình.

Khi bị tâm sân chi phối thì người đó có thể làm bất cứ việc ác nào, nhẹ thì ấm ức, tức tối; nặng thì quát tháo, đánh mắng; nặng nữa thì có thể giết người. Vì thế, Đức Phật dạy: “Nhất niệm tâm sân khởi, bách vạn chướng môn khai”, có nghĩa là khi tâm sân phát khởi thì mọi chướng ngại đều từ đó mà ra, cho nên một đốm lửa sân có thể thiêu cháy cả rừng công đức.

Trên một tờ báo có đăng câu chuyện về một cầu thủ bóng đá, vì thấy trọng tài xử oan nên nóng mặt, lao vào đánh trọng tài, nên bị kỷ luật, cấm thi đấu. Anh ta đi xin việc khác làm thì không có chuyên môn và người ta cũng ngại nhận khi thấy một người thiếu kiềm chế như vậy vào làm, nên gia đình trở nên khó khăn, vợ con khốn khổ.

Mọi gia đình tan vỡ phần lớn là do những mâu thuẫn nhỏ nhặt tích tụ lâu ngày đến mức không thể chịu đựng được, nên chia tay nhau.

Mọi cuộc chiến tranh đều có điểm khởi đầu đó là những mâu thuẫn nhỏ, rồi lời qua tiếng lại cáo buộc lẫn nhau và từ đó bùng phát thành một cuộc chiến lôi kéo hàng trăm, hàng triệu người phải chết.

Nhiều người đã lợi dụng tâm sân để gieo rắc sự thù hận bằng cách khoét sâu vào mâu thuẫn về tôn giáo, sắc tộc, quyền lợi, từ đó gây ra các cuộc chiến tranh nồi da xáo thịt.

Khi tâm sân có mặt là chướng ngại có mặt, chướng ngại có mặt thì sự chia rẽ có mặt, sự chia rẽ có mặt thì sự ngăn cách giữa con người với con người, giữa con người với loài vật, giữa con người với sự việc có mặt, tức là đánh mất lòng yêu thương.

Khi lòng yêu thương có mặt thì người ta không thấy đúng sai, mà chỉ thấy tội nghiệp, thấy thương mến, thấy đồng cảm, thấy thương xót, thấy trân trọng… lúc này sự ngăn cách giữa con người và con người, giữa con người và loài vật, giữa con người với các sự việc biến mất. Sự ngăn cách biến mất có nghĩa là tâm không còn chướng ngại, tâm không còn chướng ngại thì tâm sân biến mất.

Nói một cách đơn giản, ở đâu có tâm sân hận ở đó không có lòng yêu thương và ngược lại ở đâu có lòng yêu thương thì sự sân hận biến mất.

Qua những phân tích ở trên chúng ta biết được nguồn gốc của cơn sân và những tác hại của nó, từ đó mới tìm cách để đối trị lại tâm sân hận.

Vì nhận thức sai lầm, nhìn mọi sự việc hiện tượng bằng đôi mắt đúng sai, phải trái nên mới sanh chướng ngại trong tâm. Sở dĩ chúng ta nhìn thấy đúng sai, phải trái là vì không hiểu bản chất của các sự việc hiện tượng xảy ra xung quanh, nên đứng trên lập trường hiểu biết của chính mình để phán xét mọi người, mọi việc.

Cùng là một chiếc xe đối với người này thì đẹp, đối với người kia là xấu.

Cùng là một bài hát, đối với người này thì hay đối với người kia thì dở.

Cùng là món ăn, đối với người này là ngon, đối với người khác là dở.

Cùng một sự việc, đối với người này thì đúng, đối với người khác thì sai…

Chúng ta hãy tư duy về nhân quả thảo mộc để thấy rằng: quả cam thì khác quả ớt, quả ớt thì khác quả đu đủ, quả đu đủ thì khác quả mít, quả mít thì khác quả thanh long… Cũng là mít, nhưng mít Việt Nam khác mít Thái Lan, mít tố nữ khác mít không hạt… Cũng là một cây mít, nhưng quả ở phía trên khác quả ở phía dưới, quả ở ngoài ánh nắng khác quả ở trong bóng râm, quả ra trước khác quả ra sau. Cũng là một quả mít nhưng khi xanh khác khi chín, múi mít gần cùi khác múi gần vỏ.

Như vậy, nhân quả thảo mộc rất khác nhau giữa các loài, trong cùng một loài, trong cùng một cây và trong cùng một quả, có nghĩa không nhân quả nào giống nhân quả nào cả, do duyên hợp nên nhân quả đó khác nhau. Vì thế, không thể bắt quả mít phải giống quả cà chua hay bắt quả cà chua phải giống như quả ớt được.

Cho nên, đối với con người cũng vậy, không thể đứng trên lập trường của mình để phán xét đúng sai đối với người khác, mà hãy nhìn mọi người, mọi việc, mọi vật bằng đôi mắt nhân quả.

Khi nhìn mọi vấn đề bằng đôi mắt nhân quả thì sự đúng sai phải trái biến mất, sự đúng sai phải trái biến mất thì sự chướng ngại biến mất, chướng ngại biến mất thì tâm sân không còn.

Để nhìn đời bằng đôi mắt nhân quả thì cần phải triển khai tri kiến Định Vô Lậu và Định Chánh Niệm Tĩnh Giác. Định Vô Lậu giúp cho ta có tri kiến về các sự vật hiện tượng, Định Chánh Niệm Tĩnh Giác giúp ta bình tĩnh trước ác pháp, nhờ đó mới triển khai Định Vô Lậu để xả tâm.

Khi triển khai Định Vô Lậu thì tri kiến về nhân quả giúp ta nhìn nhận đúng sự vật hiện tượng, không có cái nhìn thiên kiến bằng đôi mắt đúng sai phải trái; còn tri kiến về thân vô thường, các pháp vô thường giúp ta thấy rằng không có gì là ta, là của ta, là bản ngã của ta cả. Do thấy như vậy thì sân cho ai, sân để làm gì? Đó là sự vô minh làm cho tâm khổ đau.

Khi hiểu được như vậy thì hàng ngày ta nên tác ý để từ bỏ tâm sân: “Tâm như cục đất, từ bỏ tâm sân cho thật sạch, vì sân là pháp cực ác làm khổ mình khổ người”.

Mặt khác chúng ta thấy rằng: Ở đâu có tâm sân thì ở đó không có lòng yêu thương, chính vì vậy trau dồi lòng yêu thương là cách để đối trị tâm sân.

Lòng yêu thương là sự tôn trọng sự sống của muôn loài, do vậy để trau dồi lòng thương yêu thì phải từ trên thân hành, khẩu hành, ý hành của mình mà thực hiện.

Trên thân hành, ví dụ khi đi thì nhắc tâm: “cẩn thận không dẫm đạp chúng sanh tôi biết tôi đang đi”; khi đứng thì nhắc tâm: “phải quan sát cẩn thận kẻo đứng giẫm đạp các chúng sanh nhỏ bé”; khi nhặt rau thì nhắc tâm: “phải quan sát không làm chết kiến, trùng tôi biết tôi đang nhặt rau”…

Trên khẩu hành, ví dụ khi đang trong cuộc họp thì nhắc tâm: “phải tôn trọng ý kiến mọi người, không được phát biểu chê bai làm mất lòng người khác”; khi đang ăn thì nhắc tâm: “phải cẩn thận quan sát kẻo nhai nuốt chúng sanh nhỏ bé trong thức ăn”

Trên ý hành thì thường nhắc tâm: “vạn vật xung quanh chúng ta đều có sự sống chan hòa, không được khởi tâm sân hận làm tổn thương đến sự sống của mọi người và mọi vật” hoặc: “phải thương yêu tất cả mọi người không được ghét ai cả”.

Đức Phật và Trưởng lão Thích Thông Lạc dạy rằng: “Tâm từ luôn đối trị tâm sân”, mà lòng yêu thương chính là tâm từ, khi trau dồi lòng yêu thương thì tâm sân biến mất, sức tĩnh giác sẽ càng cao, thường được chúng sanh yêu mến và thân thể sẽ ít bệnh tật.

Chỉ có lòng yêu thương mới có thể chấm dứt chiến tranh, xung đột, hận thù, bạo lực, ganh ghét, đố kỵ, tị hiềm, sự ngăn cách giữa con người với con người, giữa con người và loài vật và giữa con người với môi trường sống. Cho nên, Đức Phật đã dạy trong kinh Pháp cú:

“Hận thù diệt hận thù

Đời này không thể có

Từ bi diệt hận thù

Là định luật thiên thu”

Ngày nay, người ta lập ra rất nhiều hệ phái tôn giáo, học thuyết, ý thức hệ làm cho con người bị phân chia về mặt tư tưởng, dẫn đến mọi người thường đứng trên lập trường của tôn giáo, học thuyết, ý thức hệ này để phán xét người khác, gây ra mâu thuẫn lẫn nhau, đó chính là nguồn gốc của mọi xung đột.

Khi Đạo Phật ra đời, Đức Phật đã xác định đây là một nền đạo đức của con người chứ không phải tôn giáo, được xây dựng trên nền tảng quy luật nhân quả, nên đứng trên lập trường đạo đức nhân bản – nhân quả để mang lòng yêu thương đến với mọi người, mọi loài và môi trường sống, chính vì vậy giúp cho cuộc sống của muôn loài được hạnh phúc và bình an.

Bài học đạo đức đầu tiên mà Đức Phật dạy đó chính là Đức Hiếu Sinh, lòng thương yêu sự sống. Chúng ta trau dồi Đức Hiếu Sinh cho thấm nhuần thì lòng sân hận sẽ biến mất, vạn hữu xung quanh không còn chướng ngại nữa, nên chan hòa với bản thân mình trong tình yêu thương và tha thứ, đem lại sự bình an cho nhau.

Khi lòng yêu thương của chúng ta đầy đủ thì kẻ thù đứng trước mặt cũng trở thành bạn hữu, còn khi tâm chúng ta có chướng ngại thì dù có Đức Phật hay Trưởng lão Thích Thông Lạc ở cạnh một bên cũng không thể làm vừa lòng mình được. Cho nên, chỉ có lòng yêu thương mới đưa chúng ta đến cuộc sống bình an mà thôi.

Trưởng lão Thích Thông Lạc thường nhắc Nguyên Thanh rằng: “Người nào trau dồi tâm từ, tâm hỷ viên mãn sẽ nhập được tất cả các loại Thiền định”.

Tóm lại, để đối trị tâm sân hận thì hãy trau dồi lòng yêu thương và nhìn đời bằng đôi mắt nhân quả, không thấy đúng sai, phải trái. Lòng yêu thương như ánh mặt trời, soi rọi tới đâu thì màn đêm u tối của tâm sân hận sẽ tan biến đến đó, nhường chỗ cho tâm hồn thanh thản sống chan hòa với vạn vật trong hạnh phúc, an vui và chính lòng yêu thương sẽ chắp cánh cho chúng ta vươn tới sự giải thoát rốt ráo hoàn toàn.

TM. Ban Biên Tập

Sc. Nguyên Thanh

Đọc thêm
Đọc thêm
Tư liệu tham khảo
Xem thêm
Chia sẻ
Ngày đăng: 26 Tháng Năm, 2023, 10:01
Bài viết liên quan
Làm chủ lời nói

Nguyên Thanh

Tóm lại, trong giao tiếp với mọi người thì phải chánh niệm tĩnh giác quán xét cả nội tâm lẫn ngoại cảnh, tức là biết toàn diện, biết toàn diện là nhìn đời bằng đôi mắt nhân quả để ứng xử với nhau trên tinh thần không làm khổ mình khổ người, thì sẽ khắc phục được vấn đề chen ngang và áp đặt ý kiến của mình lên người khác, đó là làm chủ lời nói.

Thọ Bát Quan Trai

Nguyên Thanh

Như vậy, đối với một người còn sống giao tiếp thì giữ 5 tiêu chuẩn đạo đức làm người, nhìn đời bằng đôi mắt nhân quả, thỉnh thoảng thọ Bát Quan Trai để thực hiện đời sống không làm khổ mình khổ người, sống không làm khổ mình khổ người là giới luật, mà giới luật chính là nền tảng đạo đức, là cội gốc của thiền định, là bông trái của trí tuệ, do vậy đời sống đạo đức rất quan trọng đối với người tu hành giải thoát.

Làm chủ cái ngủ

Nguyên Thanh

Tóm lại, tu đúng là làm chủ cái ngủ, làm chủ cái ngủ là tu. Muốn làm chủ cái ngủ thì phải giữ gìn giới luật nghiêm chỉnh, giữ gìn giới luật nghiêm chỉnh là triển khai tri kiến giải thoát, triển khai tri kiến giải thoát thì phải thông suốt Định Vô Lậu và rèn luyện chánh niệm tĩnh giác, đó là những vũ khí chính để xả tâm tham, sân, si, quét sạch hôn trầm, nhường chỗ cho tâm thanh thản, an lạc, giải thoát.

Bố thí chúng sanh

Nguyên Thanh

Tóm lại, sự bố thí, làm từ thiện phải thực hiện đúng lộ trình nhân quả: nếu chúng sanh sống thiện mà gặp khó khăn thì chúng ta nên giúp đỡ để họ tiếp tục sống thiện; còn nếu chúng sanh sống ác mà gặp khó khăn thì ta nên để họ tự trả nhân quả; nếu chúng ta giúp đỡ chúng sanh mà tạo duyên phát sinh ác pháp cản trở tức là chúng sanh chưa đủ duyên phước để nhận sự giúp đỡ này, thì chúng ta nên dừng lại, hoặc là khuyên nhủ họ nên sống thiện bồi đắp phước đức để chuyển đổi nhân quả.

Pháp sai chứ người không sai

Nguyên Thanh

Tóm lại, pháp sai chứ người không sai. Vì pháp sai nên làm cho con người bị ức chế tâm trong hình thức giới luật, tiến lên thì không được mà lùi xuống thì phạm giới, nên kiểu gì cũng bị khổ đau. Còn khi gặp đúng chánh pháp, giúp chúng ta biết cách triển khai tri kiến xả tâm, ly dục ly ác pháp, hóa giải mọi chướng ngại trong lòng để tâm trở về trạng thái thanh thản, an lạc, vô sự, vượt qua nhân quả, vững bước tiến lên trên con đường giải thoát.

Tái sanh

Nguyên Thanh

Tóm lại, nghiệp tương ưng tái sanh luân hồi, tạo ra sự sống mới, khổ đau hay hạnh phúc đều do hạnh nghiệp mà ra. Nghiệp do tâm tạo, cho nên chúng ta phải biết thương tâm nghiệp lực của mình, thương tâm nghiệp lực của mình thì phải biết triển khai tri kiến nhìn đời bằng đôi mắt nhân quả để sống không làm khổ mình khổ người thì sẽ tiến hóa trên con đường thiện, giải thoát tâm mình ra khỏi mọi sự khổ đau và chấm dứt tái sanh luân hồi.

Sống tích cực

Nguyên Thanh

Tóm lại, càng siêng năng quét nhà thì nhà càng sạch, càng siêng năng xả tâm thì tâm càng sáng. Muốn tâm thanh tịnh thì phải trực tiếp trong mọi cảnh phản tỉnh tâm mình, luôn ngăn ác diệt ác pháp để tâm không còn chướng ngại, nên tâm dung thông với vạn hữu trong tình thương yêu và tha thứ, đó chính là hạnh phúc chân thật của cuộc đời.

Hành trang cho con

Nguyên Thanh

Tóm lại, bậc làm cha mẹ hãy đứng trên lập trường đạo đức nhân quả để nuôi dạy các con của mình biết ăn chay vì đức hiếu sinh theo tinh thần 5 tiêu chuẩn đạo đức làm người, biết thương yêu chia sẻ sự sống với mọi người, biết trau dồi lòng từ để rèn luyện sức tĩnh giác, biết giữ gìn vệ sinh môi trường sống và hướng theo chánh nghiệp để xây dựng cho mình một cuộc sống hạnh phúc, bình an, no ấm.

Ly dục ly ác pháp tâm bất động

Nguyên Thanh

Tóm lại, dục và ác pháp là nguyên nhân gây ra sự khổ đau cho con người. Để ly dục ly ác pháp thì chúng ta cần phải thực tập và rèn luyện theo đúng lộ trình Bát Chánh Đạo. Khi tâm ly dục ly ác pháp thì trạng thái bất động, thanh thản, an lạc, vô sự hiện ra, đó chính là chân lý giải thoát của Đạo Phật.

Lòng yêu thương đúng lộ trình nhân quả

Nguyên Thanh

Tóm lại, lòng yêu thương phải có trí tuệ nhân quả soi sáng thì mới gọi là lòng yêu thương đúng chỗ, cho nên Trưởng lão Thích Thông Lạc dạy chúng ta: đạo đức nhân bản – nhân quả, sống không làm khổ mình khổ người và khổ chúng sanh, đó là phát triển lòng thương yêu đúng lộ trình nhân quả.

Nuôi dưỡng tâm hồn giải thoát

Nguyên Thanh

Tóm lại, chị hãy lấy tình thương của người mẹ để nuôi dưỡng tâm hồn giải thoát của các con, cùng nhau thắp sáng lên ngọn đèn đạo đức nhân bản – nhân quả, sống không làm khổ mình khổ người để bước đi vững chắc trên đường về xứ Phật.

Nghiệp và tâm

Nguyên Thanh

Tóm lại, nghiệp là từ trường của hành động thân, khẩu, ý do tâm điều khiển, nghiệp nằm ngoài thân ngũ uẩn và tác động vào thân ngũ uẩn, còn tâm là cái biết tổng hợp của 6 thức trong thân ngũ uẩn. Nghiệp do tâm tạo và tâm là thể hiện của nghiệp. Muốn tâm thanh thản, an vui thì tâm phải ngăn và diệt nghiệp ác, tăng trưởng nghiệp thiện, sống không làm khổ mình khổ người.

Xả tâm ngã mạn

Nguyên Thanh

Mục đích của Đạo Phật là trang bị cho con người sự hiểu biết không có khổ đau, chứ không phải kiến thức để hơn thua tranh luận với người khác, cho nên muốn điều phục tâm ngã mạn thì chúng ta phải sống đúng 5 tiêu chuẩn đạo đức làm người và thực hành chuyên sâu 10 điều lành, luôn triển khai chánh kiến nhìn đời bằng đôi mắt nhân quả, chứ không thấy đúng sai phải trái, để xả tâm chướng ngại, sống đạo đức không làm khổ mình khổ người.

Sống là tu, tu là sống

Nguyên Thanh

Tóm lại, Đạo Phật lấy triển khai tri kiến giải thoát trong cuộc sống hàng ngày làm nền tảng vững chắc cho sự tu hành, cho nên Thầy Thông Lạc dạy: “Sống là tu, tu là sống”, sống đạo đức không làm khổ mình khổ người là tu, xả tâm không chướng ngại trước mọi hoàn cảnh là sống. Nếu sống và tu được như vậy thì cuộc đời này là cảnh thiên đàng hạnh phúc biết bao!

Nhân quả công bằng

Nguyên Thanh

Trong cuộc đời này ai cũng muốn sống hạnh phúc, bình yên, no ấm, nhưng vì vô minh nên họ mới làm khổ mình, khổ người và khổ chúng sanh, vì thế ta đừng oán trách những người đã vô tình hay hữu ý gây đau khổ cho mình bởi họ chỉ là duyên để cho ta trả nhân quả, hãy tha thứ cho họ để chấm dứt sự tiếp nối của nhân quả khổ đau. Cho nên, Trưởng lão Thích Thông Lạc đã dạy: Hãy nhìn đời bằng đôi mắt nhân quả thiện ác, chứ đừng nhìn đúng sai phải trái để cho tâm hồn ta được thanh thản, an vui, sống những ngày tháng vô sự.

Đăng ký
Đăng nhập với tên người dùng và mật khẩu
Khôi phục mật khẩu
Vui lòng nhập email đã đăng ký tài khoản, chúng tôi sẽ gửi email đổi mật khẩu đến hộp thư của bạn
Đăng nhập trang web
Khôi phục mật khẩu
Cách khác để đăng nhập
Đăng ký
Chia sẻ

Đã copy liên kết vào bộ nhớ tạm